1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

CHƯƠNG 2: TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.05 KB, 122 trang )


20



Bảng 2.1

Stt



Từ ngữ

địa phương



Số lần

xuất



Nghĩa



hiện



Từ ngữ biến âm

so với ngôn ngữ

toàn dân

1



Biểu



25



(1)Bảo, nói điều gì với ai đó

(2)Sai khiến người khác làm một điều





2



Dìa



15



Về, di chuyển trở lại chỗ ở trước đó

của mình



3



Đương



15



Đang, biểu thị sự việc, hiện tượng

diễn ra, chưa kết thúc



4



Thiệt



10



(1) Thật, đúng với tên gọi, khái niệm

(2) Ngay thẳng, có thế nào bộc lộ thế

ấy



5



Tui



30



Tôi, cách xưng hô của người nói khi

tiếp chuyện với những đối tượng

ngang hàng hoặc nhỏ hơn



Từ ngữ có trong

ngôn ngữ toàn

dân nhưng mang

ý nghĩa khác

6



Đau



10



Bệnh, ốm, ở trạng thái ở trạng thái cơ

thể hoạt động không bình thường



7



Lội



8



(1) Bơi, di chuyển trong nước hoặc

nổi trên nước bằng cử động của thân



21



thể

(2) Di chuyển, có thể bằng phương

tiện nhưng thường là bằng chân

8



Thương



145



Yêu, có tình cảm thắm thiết giữa hai

người khác giới



Từ ngữ chỉ có ở

Nam Bộ

9



Bậu



65



Tiếng gọi người tiếp chuyện với mình,

khác giới tính, có ý thương mến, thân

mật



10



Đặng 1



50



Đạt tiêu chuẩn, đạt yêu cầu, làm cho

có thể hài lòng, hoặc đủ điều kiện để

thực hiện



11



Đặng 2



20



Để, để mà; từ biểu thị điều sắp nói là

mục đích mà người nói muốn đạt tới



12



Đìa



15



Ao được đào sâu có bờ chắn giữ nước

để nuôi cá



13



Qua



75



Từ người lớn dùng để tự xưng một

cách thân mật với người nhỏ, hoặc

cách tự xưng có đôi chút tính chất

khách quan nhưng thân tình



14



Tía



40



Cha, cách xưng gọi người đàn ông có

con, trong quan hệ cha con



15



Ưng



25



Tổng cộng



548 lần



Yêu, chấp nhận lấy làm chồng vợ



Với một số từ ngữ hạn hẹp được nêu ở bảng trên, ta đã thấy từ ngữ địa phương

xuất hiện với tần số cao trong văn học dân gian Nam Bộ (548 lần), chưa kể đến hàng

loạt các địa danh, tên các sản vật chỉ riêng có ở Nam Bộ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng

văn học dân gian Nam Bộ là kho tư liệu phong phú để tìm hiểu cả phương ngữ Nam



22



Bộ lẫn văn hóa Nam Bộ. Đồng thời, khi làm sáng tỏ các đặc điểm về từ địa phương

và văn hóa Nam Bộ cũng có thể góp phần làm rõ đặc trưng của văn học dân gian

Nam Bộ.

2.2. Màu sắc địa phương và đặc trưng văn hóa

Trong “Từ vựng học tiếng Việt”, Nguyễn Thiện Giáp viết: “Từ địa phương là

những từ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương, từ địa phương là một

dạng biến thể của vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc” [18;292]. Từ địa phương phát

sinh do khoảng cách địa lí, điều kiện tự nhiên, sự kiện lịch sử, phong tục, tập quán

của một cộng đồng người. Vì vậy, từ địa phương mang đậm dấu ấn văn hóa nơi sinh

ra nó. Đồng thời, nó cũng có những khác biệt nhất định về ý nghĩa, sắc thái biểu cảm

so với từ toàn dân.

Ngoài ra, trong ngôn ngữ học, từ là kết quả của hoạt động định danh. Hiện thực

thường được gọi tên theo cách tri nhận của con người. Sự gọi tên này đã tạo ra các từ

và các đơn vị tương đương. Từ là kết quả của hoạt động phân cắt hiện thực của con

người. Phân cắt hiện thực là biểu hiện đặc trưng văn hóa của từng dân tộc. Mỗi dân

tộc sống trong một môi trường tự nhiên khác nhau, tuy quy luật tư duy của các dân

tộc trong quá trình nhận thức là giống nhau nhưng cảm nhận, phân tích, gọi tên các

hiện tượng thiên nhiên lại không hoàn toàn giống nhau. Khả năng quan sát cùng với

thói quen, phong tục tập quán làm cho mỗi cộng đồng có cách định danh khác nhau.

Vì vậy, ý nghĩa của từ không chỉ lưu giữ kinh nghiệm, tri thức mà nó còn lấp lánh

trong đó một nền văn hóa. “Trong ý nghĩa của từ có lưu giữ lại sự hiểu biết của con

người đã thu nhận, tích lũy được trong quá trình nhận thức thế giới khách quan (…).

Ngoài ra, trong ý nghĩa của từ cũng còn ghi lại cả những yếu tố văn hóa dân tộc như:

các hình ảnh, cách so sánh truyền thống, sự biểu trưng…” [85;62]. Cùng một đối

tượng có thể được gọi tên khác nhau tùy thuộc vào tâm lí của cộng đồng, văn hóa

cũng như điều kiện tự nhiên xã hội của mỗi vùng.

Nam Bộ là vùng đất phía Nam của Tổ quốc. Vùng đất này có lịch sử, điều kiện

thiên nhiên khác với các vùng khác. Chính môi trường thiên nhiên, điều kiện sống đã

tạo nên một vùng văn hóa rất đặc trưng. Các từ địa phương trong văn học dân gian

Nam Bộ góp phần thể hiện những nét văn hóa đặc trưng của vùng.



23



2.2.1. Từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng

2.2.1.1. Từ ngữ chỉ địa danh

Địa danh là các danh từ có nghĩa tổng quát để chỉ vị trí địa lí, các đơn vị được

xác định trong tổ chức hành chính, quân sự, xã hội. Việc đặt tên các địa danh chịu sự

chi phối của lịch sử, xã hội, văn hóa.

Việc định danh trong địa danh không hoàn toàn võ đoán mà gắn với một vùng

hạn định nào đó. Vì vậy, địa danh chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên, lịch sử,

văn hóa…

Trong hoạt động xã hội, việc đặt tên cho một vùng địa lí, một đơn vị hành

chính là nhu cầu tất yếu. Địa danh vừa là hiện tượng của ngôn ngữ học vừa là một

hình thức thể hiện văn hóa của cộng đồng cư dân đã từng hiện diện trong vùng lãnh

thổ tương ứng.

Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều địa danh được nhắc

đến trong văn học dân gian Nam Bộ.

a) Địa danh Hán Việt

Từ nguồn ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thống kê được 22 địa danh Hán Việt, với

tần số xuất hiện là 58 lần.

Trong các địa danh Hán Việt, người Nam Bộ thường lựa chọn các yếu tố Hán

Việt mang ý nghĩa những điều tốt lành để đặt tên cho một vùng đất nào đó.

+ Phú( giàu có): An Phú, Phú Quốc, Thạnh Phú

Ai qua sông Đốc Thị Tam

Ai về An Phú ghé giồng Cồn Tiên

+ Phước (tốt lành, giàu sang): Thường Phước, Phước Long

Tàu vượt Phước Long, tàu chạy về Phụng Hiệp

Em đưa anh về cho kịp chuyến đi

Anh đi bảo vệ quê nhà

Thương về Ninh Hóa xã nhà quê em

+ Thạnh (thịnh vượng): Thạnh Mỹ, Thạnh Phú, Thạnh Phong

Ai về Thạnh Phú, Thạnh Phong

Nhắn anh chiến sĩ biên phòng nhớ thương



24



+ Vĩnh (lâu dài): Vĩnh Hưng, Vĩnh An, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Vĩnh Mỹ,

Vĩnh Thông

Sông Vĩnh An tuy dài mà hẹp

Gái Vĩnh An không đẹp mà duyên

+ An (êm đềm): An Giang, An Phú, Vĩnh An, An Bình, An Phú, Hòa An

Muốn ăn cơm trắng cá mè

Muốn đội nón lá thì về An Giang

+ Mỹ (đẹp): Thạnh Mỹ, Mỹ Lồng, Vĩnh Mỹ, Long Mỹ, Mỹ Thuận, Bình Mỹ

Ai về Bình Mỹ, Cái Dầu

Đi lên Châu Đốc phải đi về núi Sam

+ Long (con rồng, tốt thịnh): Long Điền, Phước Long, Long Mỹ

Long Điền, chợ Thủ quê anh

Trai chuyên nghề tủ, gái sành cửi canh

+ Bình (bằng phẳng, yên ổn, hòa hảo): Vĩnh Bình, Hòa Bình, An Bình,

Bình Mỹ

Anh đi ghe từ Vĩnh Long đi Vĩnh Mỹ

Xuống tàu thủy đi tuốt Vĩnh Bình

Trước là thăm viếng gia đình

Sau nhờ mai mối cho hai đứa mình kết duyên

Trong số các yếu tố Hán Việt chỉ những điều tốt lành thì yếu tố vĩnh và an có

tần số xuất hiện cao nhất (6 lần), sau đó là các yếu tố bình và mỹ (3 lần), thạnh (2

lần).

Từ những địa danh Hán Việt ở Nam Bộ, ta thấy được ước nguyện của cha ông

thời mở đất. Trước hết, đó là mơ ước có một cuộc sống yên ổn, tốt lành, sau đó là mơ

ước có được cuộc sống sung túc và thịnh vượng. Cuộc sống tốt lành, thịnh vượng

không chỉ là mơ ước của riêng người dân Nam Bộ, tuy nhiên, đối với người dân Nam

Bộ, mơ ước ấy thường trực hơn và cháy bỏng hơn. Những người đầu tiên khai phá

vùng đất Nam Bộ, họ phải đối mặt với vô vàn khó khăn: vùng đất này hoàn toàn mới

mẻ và xa lạ, thiên nhiên mênh mông và hoang sơ. Con người đã gắng hết sức chinh



25



phục thiên nhiên đồng thời không ngừng mơ đến một cuộc sống sung túc ở tương lai.

Điều này thể hiện rõ trong hàng loạt những địa danh Hán Việt ở Nam Bộ.

b) Địa danh thuần Việt

* Địa danh có nguồn gốc từ ngôn ngữ các dân tộc ít người

Bảng 2.2.1.1a

Stt



Địa danh có nguồn gốc từ ngôn

ngữ các dân tộc ít người



Số lần xuất hiện



1



Bạc Liêu



10



2



Cà Mau



6



3



Cần Thơ



5



4



Mĩ Tho



2



5



Sa Đéc



1



6



Sóc Trăng



4



7



Trà Cú



1



8



Trà Kha



2



9



Trà Ôn



2



10



Trà Sô



2



11



Trà Vinh



4



Tổng cộng



39 lần



Chúng tôi xếp những địa danh trên vào loại địa danh thuần Việt vì trong quá

trình sử dụng các địa danh này đã được Việt hóa. Các địa danh kiểu này ưu tiên cho

mục đích giao tiếp. Người sử dụng không cần phải tìm hiểu xem địa danh đó có

nguồn gốc từ đâu và phát âm thế nào cho đúng. Địa danh Cần Thơ là địa danh quen

thuộc đến nỗi không còn ai nhận ra nguồn gốc Khmer của nó. Cần Thơ có gốc là từ

Kìn Tho (cá sặt rằn) trong tiếng Khmer. Đây là cách đặt tên địa danh theo kiểu lấy tên

loài động vật có nhiều ở một vùng đất nào đó để đặt tên cho vùng đất ấy.

Các địa danh Khmer được Việt hóa xuất hiện nhiều trong văn học dân gian Sóc

Trăng, nơi có nhiều người Khmer sinh sống. Điều này, xét ở góc độ văn hóa, cho

thấy người Việt rất tôn trọng các cư dân khác. Người Việt đối xử với người Khmer



26



như một trong những chủ nhân của vùng đất mới này. Những địa danh Khmer được

Việt hóa còn cho thấy nét văn hóa đoàn kết giữa các cộng đồng dân cư sống xen kẽ

nhau.

* Địa danh gốc Việt

Dưới đây là bảng thống kê những địa danh gốc Việt xuất hiện trong văn học

dân gian Nam Bộ:

Bảng 2.2.1.1b

STT



Địa danh thiên nhiên



Số lần xuất hiện



1



Ba Gáo



1



2



Bảy Núi



4



3



Cái Bè



1



4



Cái Dầu



1



5



Cái Ngang



1



6



Cái Răng



2



7



Cái Thia



1



8



Cầu Sập



1



9



Chốn Ba Dừa



1



10



Chợ Đáy



3



11



Chợ Giồng



2



12



Chợ Lớn



5



13



Chợ Mới



4



14



Cồn Cát



4



15



Cồn Tiên



1



16



Cù lao Ông Chưởng



3



17



Cửa Tùng



1



18



Giồng Giữa



2



19



Gò Công



3



20



Kinh Cùng



2



21



Kinh Đào



2



27



22



Kinh Một



1



23



Kinh Ông Huyện



2



24



Kinh Vĩnh Tế



3



25



Núi Cấm



2



26



Núi Sam



6



27



Rạch Cỏ Thum



1



28



Rạch Giá



4



29



Sông Cái



1



30



Sông Đốc Thị Tam



1



31



Sông Tiền



2



32



Vàm kênh Ba Láng



5



33



Vàm Lau



1



34



Vàm Nao



3



35



Vàm xáng Phong Điền



5



36



Xứ Bạc



4



37



Xứ Cây Bàng



1



Tổng cộng



96 lần



Có một số địa danh bắt đầu bằng những từ có gốc thuộc ngôn ngữ khác như

vàm, cù lao thế nhưng chúng tôi vẫn xếp chúng vào loại địa danh gốc Việt. Đó là vì

mức độ Việt hóa của các từ trên rất cao, chúng được người dân ở Nam Bộ nhận thức

và sử dụng như những đơn vị thuần Việt.

Các địa danh loại này có đặc điểm cấu tạo chung như sau:

(1)Yếu tố đứng trước chỉ các vật thể tự nhiên:

+ Sông:Sông Cái, Sông Tiền, sông Hậu

Đưa tay phân chứng với trời

Người này gá nghĩa ở đời với tôi

Nước ròng sông Hậu chảy xuôi

Trời đã xây định mình với tôi vợ chồng

+ Rạch: Rạch Cỏ Thum, Rạch Giá



28



Anh đi Rạch Giá qua truông

Gió rung ngọn sậy ngồi buồn nhớ em

+ Cù lao: Cù lao Ông Chưởng

Chiều chiều quạ nói với diều

Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm

+ Cồn: Cồn Tiên, Cồn Cát

Tàu Nam Giang chạy ngang cồn Cát

Xuồng câu tôm đậu sát mé nga

Thấy em có một mẹ già

Muốn vô hoạn dưỡng biết là đặng không?

+ Giồng: Giồng Giữa, giồng Cồn Tiên

Ai qua sông Đốc Thị Tam

Ai về An Phú ghé giồng Cồn Tiên

+ Kinh: Kinh Ông Huyện, Kinh Đào, Kinh Cùng, Kinh Một

Ai đi kinh Xáng, kinh Cùng

Ghé xem ngô bắp một vùng xanh tươi

+ Núi: Núi Sam, Núi Sập

Ai về Bình Mỹ, Cái Dầu

Đi lên Châu Đốc phải đi về núi Sam

+ Vàm: Vàm Nao, Vàm Lau

Thuyền trôi Châu Đốc thả xuống Vàm Nao

Thẳng tới Ba Sào coi chừng con nước nổi

(2)Yếu tố đứng sau chỉ tên một loài động thực vật hoặc tên một nhân vật:

+ Thực vật, động vật: vàm Lau, rạch Cỏ Thum, Rạch Giá

+ Tên một nhân vật: cù lao Ông Chưởng, kinh Ông Huyện, kinh Vĩnh Tế,

sông Đốc Thị Tam

Qua các địa danh gốc Việt ở Nam Bộ, ta thấy được khung cảnh sinh hoạt của

người dân trên một vùng địa lí có núi, có sông, có những vùng đất nổi lên giữa dòng

sông được người dân gọi là cù lao, cồn, bãi. Đó là một vùng địa lí có cấu trúc địa

hình rất phong phú, chủ yếu là gắn với sông nước.



29



Ngoài ra, Nam Bộ là vùng đất nông nghiệp trù phú. Vì thế mà nhiều sản vật

nông nghiệp hay những loài cây cỏ gắn bó với đời sống nông nghiệp của địa phương

được đưa vào địa danh: giá, dừa, gáo, lau, cỏ thum …Việc gọi tên xứ sở mình đang

sống bằng chính sản vật của địa phương, bằng những gì gần gũi nhất vừa thể hiện

niềm tự hào của người dân về nơi mình sinh sống vừa thể hiện tấm lòng tri ân của

người dân đối với thiên nhiên.

Xét ở khía cạnh khác, văn học dân gian là tác phẩm của nhân dân lao động nên

những mảng hiện thực nào gần gũi nhất với đời sống người dân sẽ được đưa vào văn

học một cách tự nhiên nhất, không cần dụng công nhiều. Điều này giúp ta giải thích

được vì sao trong văn học dân gian Nam Bộ, những địa danh nôm na, bình dị xuất

hiện với tần số cao hơn các địa danh có yếu tố Hán Việt (địa danh thuần Việt xuất

hiện 96 lần, trong khi địa danh Hán Việt xuất hiện 58 lần), đặc biệt là các địa danh

bắt đầu bằng những từ chỉ địa hình như vàm, kinh, cù lao, ngã ba, giồng, chợ, cầu.

Điều này đã trở thành đặc điểm đặc trưng của tiếng Việt ở Nam Bộ như nhà nghiên

cứu Đào Thản đã nhận xét: “Tiếng Việt Nam Bộ có xu hướng ưu tiên chọn lựa những

yếu tố nôm na, gốc rễ hơn là đi vay mượn chữ nghĩa. Việc đặt tên đất, tên người ở

đây phản ánh xu hướng đó” [75]. Qua các địa danh gốc Việt trong văn học dân gian,

ta có thể hình dung được quang cảnh tự nhiên, nếp sinh hoạt của người dân Nam Bộ.

Đó là vùng đất có nhiều sông ngòi, kênh rạch; làng xóm được xây dựng dọc theo hai

bờ sông; việc có nhiều sông ngòi và nếp sinh hoạt gắn với sông nước đã làm cho

người dân có ý thức phân biệt rất rõ các loại địa hình tự nhiên gắn với sông nước như

vàm, xẻo, gành, cù lao….

Địa danh gốc Việt ở Nam Bộ còn thường được bắt đầu bằng yếu tố cái: Cái Bè,

Cái Thia, Cái Ngang, Cái Dầu, Cái Răng..

Khen ai khéo bắt Cầu Kè

Cái Thia đi xuống, Cái Bè đi lên

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No

Anh có thương em thì sắm một chiếc đò

Để đường qua lại em mua cò gửi thư



30



Cái ở đây vốn có nghĩa là sông nước. Nếu những địa danh bắt đầu bằng kẻ là

đặc trưng của địa danh phía Bắc thì những địa danh bắt đầu bằng cái là đặc trưng của

địa danh vùng đất Nam Bộ. Những địa danh bắt đầu bằng cái mang đậm màu sắc

Nam Bộ, khó có thể lẫn lộn với nơi khác vì nó nảy sinh từ điều kiện tự nhiên đặc

trưng của vùng – nhiều sông ngòi chằng chịt nhưng tất cả các sông, ngòi, kinh, rạch

nhỏ thường đổ về một sông lớn gọi là sông cái.

Có một số địa danh mang tên người ở Nam Bộ xuất hiện trong văn học dân

gian. Tên người được lấy làm địa danh thường là những người có công lao đối với

vùng đất ấy. Kinh Vĩnh Tế là con kênh nối liền Châu Đốc và Hà Tiên. Đây là công

trình của Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh - Thoại Ngọc Hầu. Địa danh kinh Vĩnh Tế được

đặt theo tên phu nhân của ông là bà Châu Thị Tế thuộc dòng họ Châu Vĩnh.

Kinh Vĩnh Tế, biển Hà Tiên

Thuyền về xuôi ngược thông thiên hai miền

Có những địa danh, trong cấu tạo, tên người không trực tiếp xuất hiện nhưng

lại gắn với một câu chuyện kể về một nhân vật cụ thể nào đó. Địa danh Cao Lãnh gắn

với câu chuyện về ông bà Đỗ Công Tường, có tục danh là Lãnh. Dân gian kể rằng,

năm 1820 (Canh Thìn), ở vùng đất nọ, nạn dịch tả hoành hành dữ dội. Dân chúng bị

bệnh, nhiều người chết, làng xóm tiêu điều. Ông Lãnh đã lập bàn thờ khấn vái trời

đất, nguyện thế mạng mình để cầu cho dân chúng thoát cảnh đau thương. Mấy ngày

sau, ông bà mắc bệnh qua đời. đồng thời, nạn dịch tả cũng hết. Từ đó, người dân đã

lấy tên tục của ông bà, cùng với chức vụ của ông bà (câu đương) để đặt tên cho vùng

đất đó là Câu Lãnh. Sau này đọc chệch thành Cao Lãnh.

Đường nào sang cho bằng đường Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Cái Răng

Như vậy, có thể thấy, các địa danh gắn liền với tên người thể hiện lòng tri ân

đối với người có công. Đồng thời, chúng cũng góp phần ghi lại một giai đoạn lịch sử

của vùng đất ấy. Nó còn đọng lại dấu ấn của một thời vất vả, gian nan, con người tìm

mọi cách để khắc phục, chế ngự thiên nhiên. Đồng thời, các địa danh này còn thể



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

×