Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.05 KB, 122 trang )
12
Có thể thấy trong các thể loại mà chúng tôi chọn để khảo sát, ca dao dân ca là bộ
phận có số lượng nhiều nhất. Do vậy, chúng tôi thấy cần thiết phải trình bày một số
nét về ca dao, dân ca và ca dao, dân ca Nam Bộ.
Trong văn học dân gian, ca dao, dân ca là bộ phận được sáng tác bằng các thể
thơ dân tộc kết hợp chặt chẽ với các làn điệu âm nhạc để diễn đạt những khía cạnh
khác nhau trong cảm nghĩ của con người về quê hương đất nước, lao động sản xuất,
tình duyên, gia đình, quan hệ bằng hữu và các vấn đề xã hội khác.
Về đại thể, ca dao, dân ca có thể chia thành ba bộ phận:
+ Thơ ca nghi lễ: Đây là thể loại sáng tác dân gian có nguồn gốc rất cổ,
nảy sinh trong quá trình lao động, sinh hoạt, gắn chặt với thế giới quan của người
nguyên thủy cũng như ý thức tôn giáo ở các giai đoạn sau. Thơ ca nghi lễ khi diễn
xướng sẽ kèm theo các hành động nghi lễ. Loại thơ ca này phản ánh kinh nghiệm lao
động, biểu thị những khát vọng, ước mơ của nhân dân cũng như tài nghệ sử dụng
tiếng mẹ đẻ. Ở Nam Bộ, loại thơ ca này chưa được sưu tầm nhiều. Trong ngữ liệu
khảo sát của chúng tôi chỉ có 3 bài thơ ca nghi lễ nằm trong tuyển tập văn học dân
gian Sóc Trăng.
+ Dân ca lao động: Đây là những bài ca được hò hát trong lao động với
điều kiện là tiết tấu, nhịp điệu, sắc thái biểu cảm, tốc độ, cường độ và cách thức của
nó phải gắn chặt với các quá trình của một công việc cụ thể nào đó. Hò lao động là
hình thức chủ yếu của thể loại này.
+ Ca dao – dân ca trữ tình: Đây là những bài ca mà nội dung và hình thức
diễn xướng của nó không nhằm mục đích nghi lễ và không kèm những động tác có
tính chất nghi lễ. Những bài ca này vẫn được hát trong lao động, nhưng nội dung cơ
bản của nó là nhằm bộc lộ tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình.
Văn học dân gian sưu tầm ở Nam Bộ thống nhất với văn học dân gian ở các
miền khác của đất nước. Tuy nhiên, văn học dân gian Nam Bộ là bộ phận sáng tác rất
trẻ của dân tộc. Nó gắn liền với quá trình khai khẩn vùng đất Nam Bộ. Vì vậy, những
yếu tố đặc trưng ở vùng đất Nam Bộ (điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người….) đã
ảnh hưởng đến ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ.Việc tìm hiểu màu sắc địa
13
phương trong văn học dân gian sẽ chỉ ra nét độc đáo, sự đóng góp riêng của từng địa
phương.
Văn học dân gian là tiếng nói của nhân dân lao động, thế nên bản thân nó chứa
đựng những đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của nhân dân. Việc tìm hiểu phương ngữ
trong văn học dân gian của một vùng miền không chỉ giúp ta nhận thức sâu hơn về
ngôn ngữ của vùng miền mà còn giúp ta thấy được nét đặc trưng, cái hay, cái đẹp của
văn học dân gian vùng miền ấy.
1.3.Văn hóa Nam Bộ
1.3.1.Văn hóa và các thành tố của văn hóa
- Khái niệm văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình”
[84;25].
- Theo Trần Ngọc Thêm [84;28-29], văn hóa gồm bố thành tố sau: văn hóa
nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên (tận
dụng và đối phó với môi trường) và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
- “Văn hóa vùng là một phạm vi, một khu vực địa lí – văn hóa có đặc điểm và
bản sắc riêng” [81;5]. Như vậy, Nam bộ là một vùng văn hóa.
1.3.2 Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ
Những khám phá khảo cổ học cho chúng ta biết từ xa xưa, ít nhất là cách nay
từ 2500 đến 4000 năm, con người đã có mặt trên vùng đất Nam Bộ. Họ có mặt đầu
tiên ở vùng phù sa cổ (tức là vùng Đông Nam Bộ) ngày nay, sau đó mới tiếp tục hành
trình xuống vùng phù sa mới (tức là vùng Tây Nam Bộ ngày nay).
Chủ nhân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam, người Chân Lạp.
Các nhà nghiên cứu cho biết: “Chủ nhân ban đầu của vùng đất Nam Bộ là người Phù
Nam mà sách Tấn thư của Trung Hoa mô tả là “đen và xấu xí, tóc quăn, ở trần, đi
đất, tính tình mộc mạc, thẳng thắn, không trộm cắp” với hoạt động nông nghiệp và
giao thông đường thủy rất phát triển. Rồi đến TK VI thì Phù Nam nông nghiệp đã bị
người Chân Lạp dương tính hơn thôn tính” [81;603].
14
Từ TK XVII trở đi, Nam Bộ xuất hiện người Việt. Người Việt là những lưu
dân từ miền Bắc, miền Trung vào. Đây là những người bần cùng hoặc muốn tránh
cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn lúc bấy giờ mà vào Nam. Họ ra đi để kiếm sống và
cũng mong được an thân. Mặt khác, có một lớp nông dân nghèo cũng tiến vào Nam
theo chính sách đinh điền của nhà Nguyễn. “Trong sự nghiệp 300 năm mở mang,
khai phá vùng lãnh thổ phía Nam của đất nước, lớp lớp thế hệ người Việt từ vùng đất
sinh tụ lâu đời của mình là vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã và dải đất ven biển
miền Trung đã nối tiếp nhau đến lập nghiệp ngày càng đông tại địa bàn Nam Bộ
ngày nay” [38;3]. Ngoài ra, thời kì này còn có lính tráng, các tội đồ bị triều đình bắt
buộc vào Nam lập đồn điền, bảo vệ biên cương phía Nam của đất nước.
Những người dân nghèo này chinh phục vùng đất phía Nam bằng bàn tay, bằng
khối óc, bằng sự cần cù, chăm chỉ: “Nam Kì được chinh phục không phải bằng thanh
gươm, vó ngựa mỗi ngày đi hàng chục dặm mà bằng lưỡi cày, đôi trâu đi từng bước
một” [50;60].
TK XVII, XVIII, người Hoa từ các tỉnh Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông,
Quảng Tây, Hải Nam (Trung Quốc) dắt díu nhau vào khu vực đồng bằng sông Cửu
Long lập nghiệp. Cả người Pháp, Anh, Mã Lai, Ấn Độ cũng có mặt ở Nam Bộ.
TK XIX, lưu dân Việt có mặt ngày càng đông ở phía Nam sông Hậu. Họ đã
chinh phục vùng đất mới, biến một vùng hoang dại thành vùng đất trù phú, cây trái
sum sê.
Tóm lại, Nam Bộ là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em: người Việt, người
Hoa, người Chăm, người Khmer…Lớp dân cư đông nhất là người Việt. Nơi tập trung
đông nhất của họ là những vùng đất dễ làm, có nước ngọt, thuận lợi cho việc trồng
lúa nước. Người Khmer là dân tộc đông thứ hai ở Nam Bộ. Họ thường định cư, canh
tác trên những vùng đất cao, màu mỡ. Các dân tộc lập làng, dựng nhà cạnh nhau,
đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống . Tuy nhiên, dân tộc nào theo
phong tục của dân tộc đó, tuy có ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không nhiều.
1.3.3 Đặc trưng văn hóa Nam Bộ
Khi tiến vào vùng đất phía Nam, người Việt đã mang theo mình một nền văn
hóa Việt. Trước điều kiện sống mới, con người đã có những cách ứng xử mới cho
15
phù hợp. Chính vì vậy mà văn hóa Việt truyền thống đã được người Việt ở phương
Nam vận dụng linh hoạt hơn. Từ đó, hình thành một vùng văn hóa Nam Bộ có bản
sắc riêng, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam nói chung.
Có thể phác thảo vài nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ như sau: “Vùng văn hóa
Nam Bộ có hai tiểu vùng: Đông Nam Bộ (lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn)
và Tây Nam Bộ (lưu vực sông Cửu Long), với khí hậu hai mùa
(mưa – khô), với
mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa tới khai phá đã
nhanh chóng hòa nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer, Mạ,
Stiêng, Chơro, Mnông). Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn
giàu thủy sản; tính cách con người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng, tôn giáo hết sức
phong phú và đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với
văn hóa phương Tây…”[84;63].
Trong cách ứng xử với tự nhiên, người Việt ở Nam bộ vẫn giữ được nếp sống
hòa hợp và tôn trọng. Sinh hoạt và sản xuất ở Nam bộ luôn gắn với những thay đổi,
biến động của con nước, của dòng sông và thủy triều. Những biểu hiện của văn minh
sông nước thể hiện rõ trong phương thức lao động, trong nhịp sống sinh hoạt, trong
tín ngưỡng, trong phong tục và ngôn ngữ.
Trong lối ứng xử xã hội, người Việt phương Nam vẫn giữ được sự mềm dẻo,
hiền hòa của con người gốc nông nghiệp. Họ thích ứng với môi trường linh hoạt hơn,
ít câu nệ, thiết lập những quan hệ được quy định bởi điều kiện sống. Làng Nam Bộ
“ở tản ra dọc theo những con kênh, con lộ để tiện làm ăn”, “làng xã Nam Bộ không
có những thiết chế quá chặt chẽ (nhiều làng không có hương ước, thần tích, thần
phả)” [84;198]. Thôn ấp thuở ban đầu có đặc điểm là “dễ hợp dễ tan”. Những người
tứ phương đến lập làng lập ấp, thấy làm ăn khó thì lại tìm nơi khác. Do đó, “thành
phần dân cư Nam Bộ thường hay biến động, người dân không bị gắn chặt với quê
hương như ở làng Bắc Bộ” [84;198].
Tính cách con người Nam Bộ là sự biểu hiện của con người Việt Nam trong
những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định. Đó là đức cần cù, là sự đoàn kết giúp
đỡ thương yêu nhau. “Dù làm ăn dễ dãi, người nông dân Nam Bộ vẫn giữ nếp cần cù.
Dù kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt ở Nam Bộ vẫn coi trọng tính cộng đồng”
16
[84;199]. Đặt chân đến vùng đất mới, những lưu dân đã nhanh chóng kết thành chòm
xóm. Họ dựa vào nhau làm ăn, sinh sống, chống lại thú dữ, chống lại cường hào ác
bá… Người Nam Bộ can trường, gan góc, không lùi bước trước bất kì trở ngại nào
của tự nhiên cũng như những bất công, vô lí của xã hội.
Trong giao tiếp, người Nam Bộ bộc trực, chất phác, thẳng thắn, ít nói văn hoa,
rào đón. “Người dân đồng bằng sông Cửu Long – Đồng Nai vẫn chân thật, trung tín,
cởi mở, bộc trực, tình cảm (lắm khi có tính chất nguyên thủy), xử sự với người ngay
một cách không suy tính thiệt hơn. Họ cũng đòi hỏi kẻ khác cũng như vậy đối với họ”
[50;161-162].
Người Nam Bộ ít chịu sự ràng buộc của đạo đức Khổng – Mạnh, ít thuần phục
quyền uy phong kiến. Một quá khứ với bao khuôn phép gò bó, những quan niệm cổ
hủ đã được họ “cởi bỏ lại đằng sau để sáng tạo ra một phong cách sống tự do, phóng
khoáng hơn và làm cho nền đạo lí giàu tính nhân ái của dân tộc ánh lên những sắc
màu độc đáo. Họ không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng cứu khốn phò nguy,
sống cái đạo làm người “kiến ngãi bất vi vô dũng dã”” [38;68].
1.3.4 Những tác động của văn hóa đối với ngôn ngữ và văn học dân gian
- Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa:
Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ là công cụ của
văn hóa vì không có ngôn ngữ thì không có một hoạt động văn hóa nào có thể diễn ra
được. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa.
Đỗ Hữu Châu viết: “Văn hóa là một tổng thể gồm nhiều hợp phần nên ngôn ngữ phục
vụ mỗi hợp phần theo những cách thức khác nhau” [7;2]. Hồ Lê khẳng định: “Trên
lĩnh vực văn hóa bao la thì ngôn ngữ là một bộ phận. Trước hết ngôn ngữ là sản
phẩm do loài người tạo ra và vì thế nó cũng được loài người nhận thức, được nhận
thức ngay trong quá trình nó được tạo ra và được nhận thức ngày càng sâu hơn
trong quá trình nó tồn tại và phát triển” [38;333].
Trên phương diện giao tiếp, ngôn ngữ được xem là hình thức biểu hiện của văn
hóa. Ngôn ngữ trực tiếp biểu hiện những, tình cảm, cách nghĩ, nếp sống hằng ngày
của con người. Trong quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa cá nhân với
17
cộng đồng, ngôn ngữ đã trở thành một chiếc cầu nối, trở thành một phương tiện biểu
hiện cách ứng xử văn hóa.
Tuy nhiên, ngôn ngữ không chỉ là hình thức biểu hiện của văn hóa mà còn là
một hợp phần của văn hóa. “Ngôn ngữ là sản phẩm của văn hóa nhưng đồng thời nó
cũng là một hợp phần, thậm chí là hợp phần quan trọng nhất của văn hóa” [7;2].
Bàn về mối quan hệ này, Cao Xuân Hạo viết:“Những ảnh hưởng của các nhân tố văn
hóa đối với cấu trúc của một ngôn ngữ là điều khó có thể hồ nghi, tuy không phải bao
giờ cũng dễ chứng minh. Và do đó, ít ra cũng có thể tìm thấy những sự kiện ngôn ngữ
nào đó có thể cắt nghĩa được bằng những sự kiện thuộc bản sắc văn hóa của khối
cộng đồng nói thứ tiếng hữu quan, và đến lượt nó, các sự kiện ngôn ngữ lại có thể
gợi cho ta những điều hữu ích về cách cảm nghĩ của người bản ngữ và từ đấy về nền
văn hóa của họ” [24;289].
Mặt khác, nhìn từ góc độ tri nhận, có thể nói “trong ngữ nghĩa của mỗi ngôn
ngữ đều phản ánh một cách hình dung về thực tại khách quan của cộng đồng văn hóa
– bản ngữ đó, thường được gọi là mô hình thế giới, bức tranh thế giới, hình ảnh thế
giới hay biểu tượng về thế giới…” [80].
Tóm lại, “ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gắn bó với nhau, không thể
tách rời nhau. Ngôn ngữ là chất liệu truyền tải văn hóa, văn hóa là cái hàm chứa
trong ngôn ngữ . Sự sáng tạo về văn hóa thường không thể tách rời khỏi ngôn ngữ,
còn sự biến đổi và phát triển của ngôn ngữ lại luôn luôn đi song song với sự biến đổi
và phát triển của văn hóa” [59]. Đồng thời, “hệ thống từ ngữ của một ngôn ngữ là
một cuốn bách khoa toàn thư văn hóa của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định” [7;2].
Như vậy, việc tìm hiểu ngôn ngữ của một vùng miền nào đó không chỉ cung
cấp cho ta những hiểu biết về cách sử dụng ngôn ngữ của vùng miền mà còn cho ta
thấy đặc trưng văn hóa của vùng miền ấy.
TIỂU KẾT
Nam Bộ là vùng đất mới, nằm ở phía Nam Tổ quốc, được xác định ranh giới
địa lí từ Bình Dương, Bình Phước đến mũi Cà Mau. Tuy còn rất trẻ nhưng Nam Bộ
cũng đã kịp hình thành những nét văn hóa đặc trưng, phân biệt với văn hóa các vùng
18
khác. Ngôn ngữ và văn hóa lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế mà tìm hiểu
phương ngữ Nam Bộ cũng góp phần làm rõ đặc trưng văn hóa Nam Bộ.
Văn học dân gian Nam Bộ nằm trong mạch chảy của văn học dân gian dân tộc.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên đặc thù, hoàn cảnh lịch sử đặc thù mà văn học dân
gian Nam Bộ có những nét khác biệt nhất định so với văn học dân gian các vùng
khác. Một trong những biểu hiện của sự khác biệt đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ được sử
dụng trong văn học dân gian Nam Bộ không chỉ thể hiện thói quen sử dụng ngôn ngữ
của người dân Nam Bộ mà còn thể hiện tính cách, tâm tình của người Nam Bộ.
19
CHƯƠNG 2
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN NAM BỘ
2.1. Kết quả khảo sát
Để tìm hiểu từ ngữ địa phương trong văn học dân gian Nam Bộ, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát từ ngữ địa phương Nam Bộ trong các tài liệu sau:
(1) Văn học dân gian Bạc Liêu, 2002, NXB Văn nghệ TPHCM
(2)Văn học dân gian Sóc Trăng, 2005, NXB Văn nghệ TPHC
(3)Văn học dân gian An Giang, 2010, Tài liệu điền dã lưu hành nội bộ
Tất cả các tuyển tập trên đều là kết quả điền dã của Khoa Văn học và Ngôn
ngữ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM.
Ba tuyển tập có 971 tục ngữ, 2355 bài ca dao dân ca, 463 truyện cười. Trong
luận văn này, chúng tôi tập hợp các từ ngữ mang màu sắc Nam Bộ gồm: những từ
riêng có ở Nam Bộ, những từ có trong ngôn ngữ toàn dân nhưng được người dân
Nam Bộ sử dụng không hoàn toàn giống với cách dùng trong ngôn ngữ toàn dân,
những biến thể ngữ âm của từ, những danh từ riêng (cụ thể là địa danh ở Nam Bộ),
những cách diễn đạt mang màu sắc Nam Bộ. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận
thấy các yếu tố của phương ngữ xuất hiện với tần số cao trong văn học dân gian Nam
Bộ. Đồng thời, chính những yếu tố phương ngữ ấy đã góp phần làm nên bản sắc rất
riêng của văn học dân gian Nam Bộ.
Dưới đây là bảng thống kê các từ ngữ địa phương xuất hiện với tần số cao
trong nguồn ngữ liệu khảo sát:
20
Bảng 2.1
Stt
Từ ngữ
địa phương
Số lần
xuất
Nghĩa
hiện
Từ ngữ biến âm
so với ngôn ngữ
toàn dân
1
Biểu
25
(1)Bảo, nói điều gì với ai đó
(2)Sai khiến người khác làm một điều
gì
2
Dìa
15
Về, di chuyển trở lại chỗ ở trước đó
của mình
3
Đương
15
Đang, biểu thị sự việc, hiện tượng
diễn ra, chưa kết thúc
4
Thiệt
10
(1) Thật, đúng với tên gọi, khái niệm
(2) Ngay thẳng, có thế nào bộc lộ thế
ấy
5
Tui
30
Tôi, cách xưng hô của người nói khi
tiếp chuyện với những đối tượng
ngang hàng hoặc nhỏ hơn
Từ ngữ có trong
ngôn ngữ toàn
dân nhưng mang
ý nghĩa khác
6
Đau
10
Bệnh, ốm, ở trạng thái ở trạng thái cơ
thể hoạt động không bình thường
7
Lội
8
(1) Bơi, di chuyển trong nước hoặc
nổi trên nước bằng cử động của thân
21
thể
(2) Di chuyển, có thể bằng phương
tiện nhưng thường là bằng chân
8
Thương
145
Yêu, có tình cảm thắm thiết giữa hai
người khác giới
Từ ngữ chỉ có ở
Nam Bộ
9
Bậu
65
Tiếng gọi người tiếp chuyện với mình,
khác giới tính, có ý thương mến, thân
mật
10
Đặng 1
50
Đạt tiêu chuẩn, đạt yêu cầu, làm cho
có thể hài lòng, hoặc đủ điều kiện để
thực hiện
11
Đặng 2
20
Để, để mà; từ biểu thị điều sắp nói là
mục đích mà người nói muốn đạt tới
12
Đìa
15
Ao được đào sâu có bờ chắn giữ nước
để nuôi cá
13
Qua
75
Từ người lớn dùng để tự xưng một
cách thân mật với người nhỏ, hoặc
cách tự xưng có đôi chút tính chất
khách quan nhưng thân tình
14
Tía
40
Cha, cách xưng gọi người đàn ông có
con, trong quan hệ cha con
15
Ưng
25
Tổng cộng
548 lần
Yêu, chấp nhận lấy làm chồng vợ
Với một số từ ngữ hạn hẹp được nêu ở bảng trên, ta đã thấy từ ngữ địa phương
xuất hiện với tần số cao trong văn học dân gian Nam Bộ (548 lần), chưa kể đến hàng
loạt các địa danh, tên các sản vật chỉ riêng có ở Nam Bộ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng
văn học dân gian Nam Bộ là kho tư liệu phong phú để tìm hiểu cả phương ngữ Nam
22
Bộ lẫn văn hóa Nam Bộ. Đồng thời, khi làm sáng tỏ các đặc điểm về từ địa phương
và văn hóa Nam Bộ cũng có thể góp phần làm rõ đặc trưng của văn học dân gian
Nam Bộ.
2.2. Màu sắc địa phương và đặc trưng văn hóa
Trong “Từ vựng học tiếng Việt”, Nguyễn Thiện Giáp viết: “Từ địa phương là
những từ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương, từ địa phương là một
dạng biến thể của vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc” [18;292]. Từ địa phương phát
sinh do khoảng cách địa lí, điều kiện tự nhiên, sự kiện lịch sử, phong tục, tập quán
của một cộng đồng người. Vì vậy, từ địa phương mang đậm dấu ấn văn hóa nơi sinh
ra nó. Đồng thời, nó cũng có những khác biệt nhất định về ý nghĩa, sắc thái biểu cảm
so với từ toàn dân.
Ngoài ra, trong ngôn ngữ học, từ là kết quả của hoạt động định danh. Hiện thực
thường được gọi tên theo cách tri nhận của con người. Sự gọi tên này đã tạo ra các từ
và các đơn vị tương đương. Từ là kết quả của hoạt động phân cắt hiện thực của con
người. Phân cắt hiện thực là biểu hiện đặc trưng văn hóa của từng dân tộc. Mỗi dân
tộc sống trong một môi trường tự nhiên khác nhau, tuy quy luật tư duy của các dân
tộc trong quá trình nhận thức là giống nhau nhưng cảm nhận, phân tích, gọi tên các
hiện tượng thiên nhiên lại không hoàn toàn giống nhau. Khả năng quan sát cùng với
thói quen, phong tục tập quán làm cho mỗi cộng đồng có cách định danh khác nhau.
Vì vậy, ý nghĩa của từ không chỉ lưu giữ kinh nghiệm, tri thức mà nó còn lấp lánh
trong đó một nền văn hóa. “Trong ý nghĩa của từ có lưu giữ lại sự hiểu biết của con
người đã thu nhận, tích lũy được trong quá trình nhận thức thế giới khách quan (…).
Ngoài ra, trong ý nghĩa của từ cũng còn ghi lại cả những yếu tố văn hóa dân tộc như:
các hình ảnh, cách so sánh truyền thống, sự biểu trưng…” [85;62]. Cùng một đối
tượng có thể được gọi tên khác nhau tùy thuộc vào tâm lí của cộng đồng, văn hóa
cũng như điều kiện tự nhiên xã hội của mỗi vùng.
Nam Bộ là vùng đất phía Nam của Tổ quốc. Vùng đất này có lịch sử, điều kiện
thiên nhiên khác với các vùng khác. Chính môi trường thiên nhiên, điều kiện sống đã
tạo nên một vùng văn hóa rất đặc trưng. Các từ địa phương trong văn học dân gian
Nam Bộ góp phần thể hiện những nét văn hóa đặc trưng của vùng.