1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Vần đề phân loại nhóm truyện về phong tục của người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.9 KB, 49 trang )


Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



các câu ví, về sự thông minh tài trí và sức khoẻ, về sự tích anh hùng nhân

dân, truyện thần tiên ma quỷ và phù phép, truyện đền ơn trả oán, truyện tình

yêu và nghĩa vụ, truyện vui tơi dí dỏm. Ngay trong từng bộ phận cũng có sự

phân chia thành những nhóm nhỏ. Ví dụ bộ phận truyện cổ tích về nguồn

gốc sự vật có những nhóm nh nguồn gốc một số loài vật (Nhái, cá He),

nguồn gốc tiếng kiêu Dủ dỉ, Đa Đa... và nhóm truyện về nguồn gốc các

phong tục cổ truyền ngời Việt theo Nguyễn Đổng Chi cũng là một bộ phận

thuộc truyện cổ tích. Nhóm truyện này gồm có 6 truyện: Sự tích Trầu Cau,

Sự tích Ông Đầu Rau, Sự tích bánh Chng bánh Dày, Sự tích cây Nêu ngày

tết, Sự tích Ông Bình Vôi, Sự tích cái Chổi. So với toàn bộ kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam (nh Nguyễn Đổng Chi đã su tầm) nhóm truyện có liên quan

đến phong tục chỉ chiếm xấp xỉ 3%, nh vậy là không nhiều. Tuy nhiên, đây

là nhóm truyện có một số đặc điểm thi pháp (về cốt truyện, về nhân vật)

đáng lu ý tạo nên nhóm truyện đặc biệt. Mặt khác, nhóm truyện này đang là

hiện tợng nhập nhằng, cha thống nhất trong việc phân loại: Là cổ tích hay

truyền thuyết?

1.2.2. Tên truyện.

Tên gọi của mỗi tác phẩm cũng là kết quả của sự sáng tác tập thể và

truyền miệng nh bản thân tác phẩm. Tên truyện đợc xem là chi tiết quan

trọng trong cốt truyện và có quan hệ mật thiết với chủ đề của truyện . Muốn

xác định chủ đề của truyện, cần phải chú ý xem xét toàn diện các mặt khác

nhau của nó và trong đó tên truyện là một yếu tố không thể bỏ qua hoặc coi

nhẹ. Do những nguyên nhân khác nhau, các tác phẩm thuộc lĩnh vực ca dao

phần lớn đều không có tên, còn ở truyện dân gian thì hầu hết đều có tên

riêng của từng đơn vị tác phẩm. Và đó là một trong những chỗ thuận lợi mà

ngời nghiên cứu hay thởng thức truyện dân gian cần phải biết lợi dụng, khai

thác.

Cũng nh ở một số nhóm truyện khác, nhóm truyện phong tục ngời

Việt có kiểu tên truyện giống nhau, tức mở đầu đều bằng sự tích (hay gốc

tích) và gắn liền sau đó là những hoá thân của nhân vật chính trong truyện.

Trầu Cau vôi là sự hóa thân sau khi chết của vợ chồng ngời anh và ngời em, ba ông Đầu Rau là hoá thân của Thị Nhi, Trọng Cao và Phạm Lang,

cái Bình Vôi là hoá thân của vị S Nữ... Ngời đọc, ngời nghe biết đến tên

truyện và ngời ta quan tâm ngay đến những hoá thân này. Nhng câu hỏi đặt

ra vì sao có phong tục gắn với họ ? Phần sự tích chính là lời giải thích,

------------- --------------



8



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



chính là cốt truyện và cũng là một phần chủ đề của truyện. Nh vậy, có thể

thấy tên truyện ở đây đã hé mở sự lý giải nguồn gốc của một sự vật gì đó, cụ

thể là những vật liên quan đến phong tục: Trầu Cau vôi gắn với tục ăn

Trầu, ba Ông Đầu Rau gắn với tục cúng ông Táo, cây Nêu gắn với tục dựng

cây Nêu ngày Tết, bánh Chng bánh Dày gắn với tục làm bánh Chng bánh

Dày ngày Tết...

Cũng do phơng thức truyền miệng nh bản thân tác phẩm, tên truyện

cũng có hiện tợng dị bản, một truyện có thể đợc gọi bằng nhiều tên khác

nhau: truyện sự tích Trầu Cau có thể đợc gọi là Trầu Cau, Tân và Lang,

Trầu - Cau - Vôi ... , truyện Sự tích Ông Đầu Rau có thể đợc gọi là ba ông

bếp, truyện Táo Quân..., truyện sự tích bánh Chng bánh Dày có thể gọi là

Bánh chng Bánh dày, Lang Liêu.v..v. Tuy nhiên, dù đặt theo cách nào thì tên

truyện cũng phải thoả mãn hai yêu cầu chính là không trùng lặp và có quan

hệ với chủ đề ở một phạm vi mức độ nhất định. Riêng nhóm truyện có liên

quan đến phong tục, chúng tôi thống nhất cách gọi tạm thời là truyện về sự

tích các phong tục cổ truyền ngời Việt.

1.2.3. Khái niệm truyện sự tích.

Truyện sự tích (hay còn gọi là gốc tích) là những truyện kể về lai lịch

một số sự vật và hiện tợng tồn tại trong đời sống tinh thần của dân tộc. Nó

không nhằm lí giải các hiện tợng tự nhiên nh thần thoại mà giải thích tự

nhiên chỉ là cái vỏ để ẩn trong đó những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Do đó, nó

là những truyện thể hiện chức năng của hai thể loại ra đời sau thần thoại là

truyền thuyết và cổ tích. Dấu ấn của thần thoại suy nguyên và của tính

nguyên hợp trong sáng tác dân gian còn in đậm trong nhiều truyện sự tích:

nguyên hợp về chức năng, về nội dung phản ánh và thể hiện quan hệ giữa

văn học dân gian và văn hoá dân gian (dẫn theo Dạy truyện sự tích trong

chơng trình văn 7(Thông báo khoa học đại học Vinh số 2, 1992 Hoàng

Minh Đạo ). Do quan niệm nh vậy nên việc phân loại chỉ có tính tơng đối.

Nh đã nói trên, ngay trong bộ phận truyện sự tích cũng có nhiều nhóm nhỏ

( sự tích tiếng kêu Dủ Dỉ, Đa Đa, sự tích Cá He, Nhái, Sự tích phong tục...).

Đặt tác phẩm vào đúng vùng phân loại của nó cũng là một phơng pháp cho

phép chúng ta có thể chiếm lĩnh tác phẩm một cách trọn vẹn.



------------- --------------



9



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



2. Các quan niệm phân loại nhóm truyện phong tục.

2.1. Cấp độ thể loại.

Thể loại là dạng thức của tác phẩm văn học đợc hình thành và tồn tại

tơng đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở

chỗ giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện

tợng đời sống ấy... Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung

và dạng hình thức văn bản và phơng thức chiếm lĩnh đời sống. Các thể loại

văn học là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát

triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi và đợc thay thế( Olikhasôp

-7. 70, 71)

Bất kỳ một tác phẩm nào cũng thuộc một loại nhất định và quan trọng

hơn là có một hình thức thể nào đó. Tuy nhiên, hiện tợng giao thoa thể loại

rất phổ biến, trong văn học viết cũng nh trong văn học dân gian. Trong thơ

của văn học viết ta vẫn có thể tìm thấy những yếu tố tự sự, có những bài thơ

là một câu chuyện dài cảm động(Quê hơng - Giang Nam, Lợm - Tố Hữu,

Núi đôi - Vũ Cao...) hay thậm chí nh một màn kịch ngắn - Trăng đẩy cửa

sổ hỏi: - thơ xong cha? _đang bận việc quân cha làm xong. (Tin thắng trận

- Hồ Chí Minh). Ngợc lại, trong văn xuôi lại thấm đẫm chất thơ.

Trong văn học dân gian , sự đan xen thể loại càng thể hiện rõ hơn.

Mỗi thể loại đều mang trong mình yếu tố của thể loại kia: Thần thoại truyền thuyết - cổ tích, nhiều khi không xác định đợc là thần thoại hoá

truyền thuyết hay truyền thuyết hoá thần thoại, cổ tích hoá truyền thuyết hay

truyền thuyết hoá cổ tích.v..v.

Có rất nhiều yếu tố dẫn đến sự giao thoa thể loại, nhng quan trọng

nhất là nhân vật, không gian thời gian và nội dung phản ánh. Hiện tợng này

đã dẫn đến việc phân loại truyện dân gian rất khó khăn, luôn có sự nhập

nhằng giữa các thể loại. Sơn tinh thuỷ tinh là thần thoại hay truyền

thuyết ? Con rồng cháu tiên là thần thoại hay truyền thuyết ? Sự tích Hồ

gơm là truyền thuyết hay cổ tích... Ngay trong nhóm truyện phong tục vẫn

tồn tại hiện tợng nhập nhằng về thể loại, đã từng gây nhiều tranh cãi trong

các giới nghiên cứu, phê bình văn học.

Có thể điểm qua những ý kiến khác nhau trong việc phân loại các

truyện về phong tục của ngời Việt

Với truyện sự tích Trầu Cau, Tác giả Bùi Văn Nguyên ( Việt Nam

thần thoại và truyền thuyết - Nxb Văn hoá thông tin- Mũi Cà Mau, 1993)

------------- --------------



10



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



cho rằng truyện này là truyền thuyết, tên gọi Tân và Lang. Trong khi đó, tác

giả Đinh Gia Khánh trong cuốn văn học dân gian Việt Nam, (Nxb GD,

H.1997) lại cho rằng Sự tích Trầu Cau là truyện cổ tích.

Với truyện sự tích Ông Đầu Rau trong công trình nh trên, Bùi Văn

Nguyên cho là truyền thuyết Ông Bếp, Đinh Gia Khánh, Hoàng Tiến

Tựu lại cho là truyện cổ tích.

Với sự tích bánh chng bánh dày, Bùi Văn Nguyên cho là truyền

thuyết Lang Liêu, sách tích hợp ngữ văn 6 Nguyễn Khắc Phi (chủ biên)

cũng khẳng định là truyền thuyết ( Nguyễn Xuân Lạc ủng hộ ). Trong khi

đó, sách văn 6, I, 94 trớc chỉnh lý, sách văn 6, II, 99 chỉnh lý lại xếp truyện

này vào truyện cổ tích.

Đó là những ý kiến phân loại tác phẩm không thống nhất với nhau,

mỗi ý kiến đa ra có kèm theo những cơ sở với những lập luận nhất định. Qua

tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy những ý kiến xếp một số truyện này vào thể

loại truyền thuyết bởi những lý do sau :

Thứ nhất, các tác giả căn cứ vào nội dung của truyện và thấy dấu ấn

nội dung các chi tiết thời Hùng Vơng đậm nét hơn - đây là ý kiến của

Nguyễn Xuân Lạc đợc Phơng Thảo nhắc đến trong bài viết Giảng dạy

truyện dân gian trong chơng trình lớp 6 THCS, (T/c Văn hoá dân gian, số 3,

2002, 81 ).

Thứ hai, căn cứ vào một số nhân vật xuất hiện trong truyện (Vua

Hùng, trong truyện Sự tích bánh Chng bánh Dày, Sự tích Trầu Cau - Vôi ) là

những nhân vật chủ yếu trong truyền thuyết .

Thứ ba, các tác giả căn cứ vào cách kết thúc truyện, phần kết thúc

tuyện nh một lời bình luận, gần với đặc trng của truyền thuyết (Thánh

Gióng, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh). Theo Bùi Văn Nguyên : truyện kể sự tích

bánh Chng bánh Dày, phần kết thúc có đoạn : Sau khi Lang Liêu lên ngôi

vua thay cha, các anh em của Lang Liêu tiếp tục đi làm quan nơi phiên trấn

cũ. Để giữ cho con cháu các quan không tranh giành nhau đất đai, nhà vua

cho dựng các cọc mốc biên giới bằng gỗ để dựng hàng rào (tức cọc mốc)

Thuật ngữ hành chính Sách có từ đó, một đơn vị miền núi tơng ứng với

trang phờng ở nơi khác(11.205).

Thứ t, căn cứ vào di tích còn lại liên quan đến truyện (truyện Trầu

Cau) : Miếu Tam Phơng đợc nâng cấp thành đền thờ ở một số làng bên bờ

sông cả nh Nam Hoa (Thanh Chơng Nghệ An) Từ đời Trần đã có sắc

------------- --------------



11



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



phong Cao Tân - Cao Lang là Đại Vơng, Phù Nơng là công chúa. Mặc

dù sau cách mạng tháng tám những di tích đó đều bị phá nhng nó liên quan

đến lịch sử (11.225)

Một lý do nữa là các tác giả cho rằng truyện giải thích nguồn gốc sự

vật : vì sao có Trầu, Cau, Vôi ? Điều này rất gần với đặc trng của thần thoại

suy nguyên.

Đó là những ý kiến hay giả thuyết đa ra khi phân loại một đơn vị tác

phẩm của các tác giả nói trên. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa trên những căn cứ đó

để phân loại cho một tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm dân gian đang là

hiện tợng nhập nhằng về thể loại thì e là quá vội vàng.

Việc sách tích hợp Ngữ văn 6 Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) và

Nguyễn Xuân Lạc dựa vào dấu ấn nội dung của truyện để khẳng định là

truyền thuyết (Bánh Chng - bánh Dày) mà theo ông là : Các chi tiết thời

Hùng Vơng đậm nét hơn là một điều khó chấp nhận. Thực ra khó có thể

thấy chi tiết lịch sử thời Hùng Vơng. Nếu căn cứ vào thời gian là thời Hùng

Vơng thì cha thể khẳng định đó là truyền thuyết, đành rằng thời gian trong

truyền thuyết đều đợc xác định cụ thể mặc dù xét cho cùng nó cũng bao hàm

sự h cấu, hơn nữa những truyện này đã lâu lắm nên nhân dân ta đã kể rằng

những sự việc trong truyện có từ thời Hùng Vơng(6. 299) không có gì đảm

bảo chắc chắn và chính xác. Mặt khác, việc phân loại không thể chỉ dựa vào

dấu ấn nội dung vì có rất nhiều thể loại văn học cùng tái hiện những vấn đề

nhất định của cuộc sống. Tất nhiên chúng ta không phủ nhận bóng dáng

lịch sử trong các truyện này chẳng hạn nh truyện Sự tích Trầu Cau, Sự tích

Đầu Rau phản ánh thời kì lịch sử xã hội loài ngời trải qua thời kì quá độ từ

chế độ quần hôn sang loại hình hôn nhân cá thể một vợ một chồng. Tuy

nhiên, chút ít lịch sử đó cha đủ để có thể xác định thể loại cho truyện. Điều

mà chúng ta phải quan tâm nhất sẽ là những phơng thức tạo dựng tác phẩm

mà đối với loại hình tự sự trớc hết là nhân vật và cốt truyện.

Nhân vật là nơi bộc lỗ rõ nhất những phơng thức tái hiện đời sống của

loại hình tự sự. Tất nhiên, mỗi thể loại đều có cách chiếm lĩnh thực tại riêng

của mình nên cũng có cách tái tạo cuộc sống qua nhân vật không giống

nhau. Đặc trng nhân vật trong thể loại truyền thuyết là những nhân vật bán

thần những nhân vật lịch sử gắn với các thời Hùng Vơng. Bởi vậy, khi phân

loại những truyện trong nhóm này, các tác giả đã dựa vào sự xuất hiện của



------------- --------------



12



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



nhân vật Vua Hùng và coi đó là căn cứ để khẳng định hai truyện Sự tích Trầu

Cau, sự tích bánh chng bánh dày là truyền thuyết thời Hùng Vơng.

Quả vậy, Vua Hùng vốn là nhân vật thờng xuất hiện trong truyền

thuyết thời Hùng Vơng (Vua Hùng trong Thánh Gióng, Mai An Tiêm). Và

trong nhóm truyện về phong tục, Vua Hùng xuất hiện trong truyện Sự tích

Trầu Cau, Sự tích bánh Chng bánh Dày nhng không phải vì thế mà khẳng

định đó là truyền thuyết. Bỡi lẽ, nhân vật vua Hùng trong hai truyện này chỉ

là nhân vật phụ,với vai trò rất mờ nhạt, khác với vai trò rất quan trọng gần

nh nhân vật chính của vua Hùng trong truyền thuyết. Trong khi đó, nhân vật

chính trong hai truyện trên là Tân - Lang, những ngời lao động bình thờng

sớm thành kẻ mồ côi, là Lang Liêu - một ngời lao động, đặc biệt là ngời con

út chịu nhiều thiệt thòi trong gia đình. Đó là những loại nhân vật đặc trng

của truyện cổ tích. (Điều này sẽ đợc trình bày kỹ ở chơng ba của khoá luận

này).

Một trong những đặc điểm của truyền thuyết là có liên quan

đến lịch sử, điều đó thể hiện trong những truyện này ở những di tích còn lại

hay phần kết thúc truyện có nói đến sự ra đời một thuật ngữ, một phơng thức

gì đó (bánh Chng bánh Dày với thuật ngữ mộc sách, sự tích Trầu Cau với di

tích miếu Tam Phơng). Nhng thực tế không ít những truyện cổ tích có dính

dáng đến lịch sử nh vậy (Chàng Lía, Bùi Cầm Hổ...) Đặc biệt, xét về mặt

chức năng thể loại, truyền thuyết là sự nhận thức lí giải lịch sử, chủ yếu hớng

về đề tài lịch sử, nhằm phản ánh, lí giải các sự kiện lịch sử trọng đại, các

nhân vật lich sử có vai trò và ảnh hởng lớn đối với sự tồn tại, phát triển của

cộng đồng. Trong khi đó, những truyện trong nhóm truyện này đều phản ánh

những vấn đề của cuộc sống sinh hoạt đời thờng, nhận thức của con ngời,

nhận thức những quan hệ giữa con ngời với con ngời, đồng thời giáo dục con

ngời khao khát hớng thiện. Đó là chức năng thể loại của truyện cổ tích.

Về phần kết thúc của truyện, trong nhóm này phần kết thúc gần nh lời

bình luận trong truyền thuyết. Tuy nhiên, chính phần kết thúc này lại là phần

đề cập đến một phong tục quen thuộc của ngời Việt thuộc đời sống hàng

ngày của nhân dân, cũng là đặc trng của truyện cổ tích. Chúng tôi không phủ

nhận truyền thuyết cũng có giải thích phong tục nhng những phong tục đó

lại đợc giải thích bằng chính phong tục đợc phát biểu trong truyện hay

những phong tục đó đã làm nên truyền thuyết. Các t liệu về việc đi săn thời

Hùng Vơng nhằm chứng minh cơ sở hiện thực của truyền thuyết và mối

------------- --------------



13



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



quan hệ giữa truyền thuyết với tín ngỡng phong tục có thể cho thấy điều đó.

Từ cơ sở hiện thực đến phong tục và từ đó sáng tạo thêm truyền thuyết.

Trong t liệu Vua Hùng dẫn đoàn ngời đi săn, khi đoàn ngời đang quây quần

bên đống lửa chia thịt con thú săn đợc thì một ngời phụ nữ mang thai đến.

Những ngời đi săn quan niệm sự xuất hiện của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ

mang thai lúc này sẽ mang lại điềm gở, họ toan đuổi ngời phụ nữ kia đi, thì

chị ta liền nói: khi đi săn, nếu ngời đàn bà mang thai đến, hãy chia cho họ

hai phần thịt thì sẽ mang lại may mắn. Nói xong ngời phụ nữ mang thai biến

thành con chim Trĩ bay đi. Từ đó có phong tục của ngời đi săn: ngời đàn bà

mang thai đến đoàn săn đều đợc chia hai phần thịt. Có thể thấy rằng từ các

phong tục đến các nghi lễ về săn bắn với các dấu hiệu không thể nhầm lẫn đã

nói lên cơ sở hiện thực của truyền thuyết. Trong khi đó, các phong tục trong

nhóm truyện này là những phong tục có thật nhng lại đợc giải thích bằng

những câu chuyện bịa. Đó là cái lõi của cổ tích.

Cùng với việc phản ánh phong tục, truyền thuyết còn có kiểu kết cấu

chùm, chuỗi nh chùm truyền thuyết về Lê Lợi, chùm truyền thuyết Hùng Vơng... trong khi những truyện trong nhóm truyện phong tục này lại rời rạc,

phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau trong mọi ngóc ngách đời sống nhân

dân, một kiểu kết cấu của truyện cổ tích. Chùm truyện Họ Hồng Bàng trong

chùm truyền thuyết thời Hùng Vơng có Truyện xăm mình phản ánh tục xăm

mình của ngời Việt cổ. Truyện kể rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ chia năm

mơi ngời con theo cha xuống biển, năm mơi ngời con theo mẹ lên núi. Trớc

khi chia tay, Lạc Long Quân dặn các con: Khi nào có việc gì, hãy đến bờ

biển gọi to: Bố Rồng ơi, giúp chúng con với, ta sẽ đến. Năm mơi ngời con

theo mẹ lên núi lập thành mời tám đời vua Hùng. C dân của các vua Hùng

đánh bắt cá ở các vùng biển nhng thờng xuyên bị các loài thuỷ quái quấy rối

không cho làm ăn. Để giúp dân, các vua Hùng ra bờ biển gọi lớn: Bố Rồng

ơi, giúp chúng con với. Lạc Long Quân hiện lên hỏi có chuyện gì. Các vua

Hùng thuật lại mọi chuyện và ngỏ ý nhờ Long Quân giúp đỡ. Long Quân

dặn các vua Hùng về bảo với c dân vẽ hình Rồng lên mình, khi gặp các loài

thuỷ quái, nhận ra ngời anh em sẽ không bị quấy rối nữa. Từ đó ngời Việt cổ

có tục xăm mình. Nh vậy, với truyện xăm mình, ngời Việt cổ đã giải thích đợc tục xăm mình từ rất xa của mình, và điều quan trọng là giữa phong tục và

tín ngỡng có một mối quan hệ hết sức gắn bó, tục ăn Trầu gắn với tín ngỡng



------------- --------------



14



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



thờ tổ tiên, tục xăm mình gắn với tín ngỡng thờ vật tổ, tục cúng Ông Táo gắn

với tín ngỡng thờ Thổ Công.v..v.

Có thể nói, việc các nhà khoa học không thống nhất trong việc phân

loại các truyện này là vì quan niệm về thể loại truyền thuyết trong ngành

lclore học nớc ta còn mới mẻ và cha đợc xác lập đầy đủ, rõ ràng, trong khi

bản thân truyện dân gian lại mang tính nguyên hợp cao. Hơn nữa, khi tiến

hành phân loại, các tác giả chỉ dựa vào một số dấu ấn hay chi tiết nào đó chứ

cha đa ra đợc hệ thống tiêu chí phân loại (nh chức năng thể loại, đặc trng thi

pháp) trong khi hiện tợng giao thoa thể loại trong từng đơn vị tác phẩm văn

học dân gian là rất phổ biến và thể hiện ngay ở những chi tiết mà các tác giả

đã chỉ ra. Chấp nhận hiện tợng giao thoa thể loại bởi nó phù hợp với qui luật

sáng tạo nghệ thuật, nhất là với một loại hình đợc sáng tác không từ một ý

đồ định sẵn, có trớc và lại đợc lu truyền bằng miệng nh văn học dân gian.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà có thể tuỳ tiện trong việc phân loại tác

phẩm tự sự dân gian, càng không thể có thái độ thoả hiệp tránh đa những

truyện này vào trong chơng trình phổ thông. Điều quan trọng là phải xét xem

những truyện đó nghiêng về đặc trng thể loại nào để có thể phân loại một

cách rõ ràng, đi đến thống nhất trong quá trình thâm nhập, chiếm lĩnh tác

phẩm.

Theo những đặc trng thể loại đã phân tích ở trên, chúng tôi khẳng định

rằng những truyện trong nhóm truyện này là truyện cổ tích.

2.2. Cấp độ tiểu loại.

Việc phân chia thể loại đã phức tạp, ở cấp tiểu loại, những ý kiến

khác nhau cũng không ít. Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu truyện cổ tích

trong và ngoài nớc đều tơng đối thống nhất chia truyện cổ tích thành ba bộ

phận (tiểu loại): Cổ tích thần kỳ, Cổ tích sinh hoạt và cổ tích loài vật.

Truyện cổ tích thần kỳ bao gồm những truyện hớng về đời sống xã

hội, lấy con ngời (chủ yếu là những ngời lao động nghèo khổ, lơng thiện)

làm nhân vật trung tâm, ngoài ra còn có những nhân vật và yếu tố thần kỳ

(nh Tiên, Bụt, Chim Thần, Trăn Tinh, Cây Đèn Thần...) những nhân vật có

vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết và giải quyết

xung đột, mâu thuẫn của truyện (Ví dụ truyện Thạch Sanh, truyện Tấm Cám,

truyện Sọ Dừa...). Trong truyện cổ tích thần kỳ, ngoài thế giới trần gian (cõi

trần) còn có các thế giới siêu nhiên và các nhân vật thần kỳ quan hệ, giao



------------- --------------



15



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



tiếp với nhau tạo nên một thế giới đặc biệt thờng đợc gọi là thế giới cổ tích

rất thơ mộng và diệu kỳ.

Truyện cổ tích thế sự (còn gọi là cổ tích thế tục, cổ tích sinh hoạt hay

cổ tích hiện thực), đó là những truyện cổ tích không có yếu tố thần kỳ, hoặc

nếu có thì cũng rất ít. Nếu truyện cổ tích thần kỳ giải quyết xung đột chủ yếu

bằng Cái thần kỳ và ở Cõi thần kỳ thì truyện cổ tích sinh hoạt (hay thế

sự) lại giải quyết xung đột chủ yếu trong cuộc đời trần thế và bằng các logic

của đời sống thực tế con ngời (các danh từ thế sự, thế tục, sinh hoạt

hay hiện thực đều nhằm nói lên điều đó). Yếu tố thần kỳ ở đây nếu có thì

cũng chỉ là phơng tiện nghệ thuật thứ yếu và nhiều khi chỉ đợc dùng nh họa

tiết hoặc cái đờng viền trang trí để làm cho câu truyện thêm li kỳ hấp dẫn.

Truyện cổ tích loài vật là truyện cổ tích hớng về sinh hoạt của xã

hội loài vật và lấy loài vật làm nhân vật chính, nhất là những con vật gần

gũi và có nhiều ảnh hởng, tác dụng đối với đời sống con ngời nh con Trâu,

con Hổ, con Sáo, con Thỏ, con Cáo, con Khỉ,...

Đối với nhóm truyện cổ tích phong tục, không có tiểu loại truyện cổ

tích loài vật mà chỉ thuộc hai tiểu loại cổ tích thần kỳ và cổ tích thế sự. Tuy

nhiên, là tiểu loại nào trong hai tiểu loại đó thì ở mỗi truyện vẫn đang là một

sự tranh cãi cha thống nhất.

Chu Xuân Diên - Lê Chí Quế trong Tuyển tập truyện cổ tích Việt

Nam cho rằng: Sự tích Trầu Cau, Sự tích Cây Nêu, Sự tích Đầu Rau, Sự

tích bánh Chng bánh Dày là truyện cổ tích thần kỳ.

Nh đã nói qua ở phần lịch sử vấn đề, trong khi phân loại các truyện

có liên quan đến phong tục, giáo s Hoàng Tiến Tựu có hai quan niệm khác

nhau: ở cuốn Văn học dân gian Việt Nam, (Nxb-GD,1996) tác giả cho

rằng những truyện Trầu Cau, Ba Ông Bếp là những truyện cổ tích sinh hoạt

(67.68). Trong khi đó ở cuốn Bình giảng truyện dân gian, tác giả lại khẳng

định Sự tích Trầu Cau, sự tích Đầu Rau là cổ tích thần kỳ, với lý do mặc dù

các nhân vật đều là ngời, không có Bụt xuất hiện lần nào nhng không thể xếp

vào cổ tích sinh hoạt vì cuối cùng mâu thuẫn đều đợc giải quyết trong tác

động của cái thần kỳ là chủ yếu. Những cái chết của các nhân vật trong

truyện Trầu Cau cũng nh Sự tích ba Ông Bếp đều rất thần kỳ và việc các

nhân vật ấy hoá thành Đá, cây Cau, cây Trầu, ba ông Bếp đều là phi lý, phi

thờng và phi thực (17.16). Chu Xuân Diên - Lê Chí Quế tuy không lý giải



------------- --------------



16



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Nguyễn Thị Thu



vì sao nhng khi xếp những truyện đã kể trên vào tiểu loại cổ tích thần kỳ có

lẽ cũng theo một lập luận nh Hoàng Tiến Tựu.

Việc xác định tiểu loại cho một truyện cổ tích, là cổ tích thần kỳ hay

cổ tích thế sự phải dựa vào một số đặc điểm (nh nhân vật, cách giải quyết

xung đột trong truyện) tức là điều quan trọng nhất là phải xác định cho đợc

yếu tố thần kỳ có góp phần thúc đẩy cốt truyện phát triển hay giải quyết mâu

thuẫn của truyện không. Thực ra, ở các truyện Sự tích bánh chng bánh dày,

Sự tích cây nêu ngày tết, Sự tích cái chổi, Sự tích Ông Bình Vôi theo nh tiêu

chí xác định tiểu loại trên là truyện cổ tích thần kỳ bởi vì ở những truyện này

các xung đột mâu thuẫn của truyện sẽ không thể giải quyết nổi nếu không có

sự xuất hiện của lực lợng thần kỳ: ông tiên (SựTích Bánh Chng Bánh Dày),

Bụt, Phật (Sự tích Cây Nêu, Sự tích Ông Bình Vôi), Ngọc Hoàng - Sự tích cái

chổi)

Riêng Sự tích Trầu Cau, Sự tích Đầu Rau không phải là truyện cổ tích

thần kỳ. Bởi vì các xung đột, mâu thuẫn của truyện đều đợc giải quyết trớc

khi có các yếu tố thần kỳ xuất hiện, yếu tố thần kỳ chỉ là phụ, là phơng tiện

nghệ thuật khiến cho câu chuyện thêm li kỳ hấp dẫn và đặc biệt trong nhóm

truyện này còn là để giải thích một phong tục cổ truyền của ngời Việt - một

chủ đề khác của truyện.

Nh vậy, trong nhóm truyện cổ tích phong tục, truyện Sự tích bánh Chng bánh Dày, Sự tích cây Nêu, Sự tích cái Chổi, Sự tích Ông Bình Vôi là

những truyện thuộc tiểu loại cổ tích thần kỳ; truyện Sự tích trầu Cau, Sự tích

ba Ông Đầu Rau thuộc tiểu loại cổ tích sinh hoạt. Tuy nhiên, dù ở tiểu loại

nào, các truyện thuộc nhóm truyện này đều có những đặc điểm chung về thi

pháp và thuộc các phạm trù của thi pháp truyện cổ tích. Điều này sẽ đợc

chúng tôi làm rõ trong hai chơng tiếp theo của khoá luận này.



------------- --------------



17



Nguyễn Thị Thu



Khoá Luận Tốt Nghiệp



Hơng



Chơng II

Đặc điểm cốt truyện

1. Khái niệm cốt truyện và những đặc điểm chung của cốt truyện cổ

tích.

1.1. Khái niệm cốt truyện.

Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể đợc tổ chức theo yêu cầu t tởng

và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong

hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch. Có thể tìm

thấy qua một truyện hai phơng diện gắn bó với nhau00000: một mặt cốt

truyện là một phơng diện bộc lộ tình cảm, nhờ cốt truyện, nhà văn bộc lộ,

thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt khác, cốt truyện vừa góp

phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính

cách lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh trung thực xung đột xã

hội có sức mạnh lôi cuốn, hấp dẫn ngời đọc. (7.70, 71).

1.2. Đặc điểm chung của cốt truyện cổ tích.

Truyện cổ tích là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh hoặc tơng đối

hoàn chỉnh. Nó là thể loại đạt đến cấp độ cao trong nghệ thuật tự sự truyền

miệng trớc khi chuyển sang giai đoạn toàn thịnh của văn xuôi trong văn học

viết. Điều đó thể hiện trong cách cấu tạo tác phẩm, xây dựng tình tiết.

Về phơng diện kết cấu, truyện cổ tích giống nh đại bộ phận các truyện

cổ khác, có ba phần: Mở đầu, khai triển và phần kết thúc.

Phần mở đầu thờng là giới thiệu thời gian, không gian và nhân vật.

Cách giới thiệu gần nh cùng một kiểu: Thời gian - ngày xửa ngày xa đã lâu

lắm... Không gian - ở một vùng nọ, ở một vong quốc xa xôi nọ... Sự xuất

hiện của thời gian, không gian và nhân vật thờng là phiếm chỉ, một số truyện

có thời gian không gian cụ thể, có tên nhân vật, tuy nhiên đó cũng chỉ là

cách nói phiếm chỉ, không có gì đảm bảo thời gian, không gian ấy là chính

xác, cũng không có nét riêng gì từ tên nhân vật. Cách giới thiệu này có ý

nghĩa đặc trng cho thể loại, đa ngời đọc ngời nghe đến một miền xa xôi và

rất xa, một miền thuộc thế giới cổ tích, thực sự thoát li khỏi hiện tại.

ở phần triển khai, phần diễn biến chính của truyện gồm hệ thống các

sự kiện đợc sắp xếp trong truyện. So với cốt truyện ở văn học viết, nó có



------------- --------------



18



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

×