Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.62 KB, 147 trang )
Như vậy, phương pháp tính chi phí nguồn vốn đơn giản nhất đối với ngân hàng
là phương pháp một nguồn vốn, sử dụng chi phí cận biên, với giả định rằng
nguồn vốn chính của ngân hàng là tiền gửi cố định.
Đồ thị lãi suất
Đồ thị lãi suất là một công cụ quan trọng giúp xác định lãi suất cho mỗi loại
công cụ tài chính với thời gian đáo hạn khác nhau. Đồ thị này cho thấy quan hệ
giữa lãi suất của một công cụ tài chính và thời hạn của công cụ đó. Đồ thị lãi
suất mô tả lãi suất thu được trên trục tung và thời hạn trên trục hoành.
Trong điều kiện thông thường, hầu hết các công cụ tài chính có đường đồ thị lãi
suất có độ dốc dương. Điều này phản ánh thực tế rằng các công cụ có thời hạn
dài hơn thường có mức rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản cao hơn so vớicác
công cụ có thời gian ngắn hơn. Do đó, quan hệ rủi ro/ lợi nhuận chothấy thị
trường phải áp dụng lãi suất cao hơn đối với các công cụ có thời hạn dài hơn.
ALCO và Khối văn phòng vốn cần tham khảo đồ thị lãi suất để đảm bảo việc
định giá tài sản và công nợ nhất quán với xu hướng định giá của thị trường cho
từng giai đoạn cụ thể.
6.5.
Hệ thống hạn mức hoạt động rõ ràng và bắt buộc
Hạn mức có thể được thiết lập trên cơ sở tổng hợp cũng như theo từng loại danh
mục hoặc từng loại công cụ. Các hạn mức cần được thiết lập phù hợp với quy
mô, mức độ phức tạp và mức vốn của ngân hàng, đồng thời phải nhất quán trong
việc xem xét các ảnh hưởng của thay đổi lãi suất đối với thu nhập lãi suất thuần
của ngân hàng.
Phương pháp tiếp cận phổ biến nhất để đánh giá ảnh hưởng của rủi ro lãi suất
đối với thu nhập hiện tại là “phân tích khe hở”, bao gồm lập bảng về thời gian
đáo hạn/tái định giá trong đó phân loại tài sản và công nợ nhạy cảm với lãi suất
theo từng nhóm theo thời gian đáo hạn (nếu là lãi suất cố định) hay thời gian còn
lại đến khi tái định giá (nếu là lãi suất thả nổi)
Khoảng chênh lệch, hay còn gọi là “khe hở” giữa tài sản và công nợ trong một
khoảng thời gian có thể được nhân với thay đổi lãi suất dự kiến để ước tính thay
đổi của thu nhập lãi thuần do thay đổi lãi suất. Ví dụ:
•
Khe hở âm (công nợ nhạy cảm) cho thấy có nhiều công nợ được tái định giá
trong một khoảng thời gian cố định hơn là tài sản. Trong giai đoạn lãi suất
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
76
đang có xu hướng tăng, thu nhập lãi suất thuần có thể bị ảnh hưởng bất lợi vì
chi phí lãi trong giai đoạn đó tăng nhanh hơn lãi thu được từ tài sản. Nếu lãi
suất đang giảm, với khe hở âm, Ngân hàng sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn
do nhiều công nợ được tái định giá với lãi suất thấp hơn.
•
Khe hở dương (tài sản nhạy cảm) cho thấy nhiều tài sản hơn công nợ sẽ được
tái định giá trong một khoảng thời gian. Trong trường hợp này, thu nhập có
xu hướng tăng khi lãi suất tăng vì nhiều tài sản hơn công nợ được tái định giá
tại lãi suất cao hơn.
Dựa trên mức độ chấp nhận của ngân hàng đối với rủi ro lãi suất, và với giả định
về thay đổi tiềm tàng trong tương lai của lãi suất, ALCO có thể xây dựng hạn
mức khe hở cho phép cho từng giai đoạn thời gian.
6.6.
Hệ thống thông tin cần thiết để báo cáo rủi ro lãi suất kịp thời và chuẩn
xác
Các yêu cầu cơ bản đối với hệ thống thông tin quản lý của ngân hàng trong việc
báo cáo rủi ro lãi suất cũng tương tự như các yêu cầu về báo cáo rủi ro thanh
khoản, như đề cập trong phần 4.5. Phân tích thời gian đáo hạn của tài sản và
công nợ với lãi suất cố định dùng trong quản lý rủi ro thanh khoản cũng có thể
được dùng để phân tích về mức độ nhạy cảm đối với lãi suất của các tài sản và
công nợ đó. Một yêu cầu bổ sung đặc biệt đối với rủi ro lãi suất là cần phải thu
thập thông tin về thời gian tái định giá của các tài sản và công nợ với lãi suất thả
nổi.
Các báo cáo cần dựa trên dữ liệu của Ngân hàng về rủi ro lãi suất, bao gồm các
thông tin về:
•
Mức độ rủi ro lãi suất của ngân hàng
•
Hành vi của người đi vay trong việc trả nợ vay trước hạn, và hành vi của
người gửi tiền về việc rút tiền trước hạn, nhằm giúp ngân hàng có thể thiết
lập được những giả thiết về rủi ro quyền lựa chọn như mô tả ở trên;
•
Thông tin về tính tuân thủ của ngân hàng đối với các cơ chế hạn mức
Ví dụ về các báo cáo này được trình bày trong Phần 6.7.
6.7.
Báo cáo rủi ro lãi suất
Một số ví dụ về các báo cáo liên quan đến quản lý rủi ro lãi suất:
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
77
Báo cáo
Mô tả
Mục đích
Định kỳ
Nguồn
•
Báo cáo lãi Phân tích các mức lãi
suất áp dụng cho các tài
suất
sản và công nợ trong
bảng cân đối kế toán
Thông tin nhanh về Hàng tháng
các mức lãi suất
làm cơ sở để thấy
được xu hướng
biên độ lãi suất
tổng thể
Thủ công
•
Báo cáo khe Bảng phân tích về thời Phân tích khe hở Hàng tháng
gian đáo hạn/tái định giá đối với mỗi giai
hở lãi suất
trong đó phân bổ tài sản đoạn và luỹ kế
và công nợ nhạy cảm với
lãi suất theo những
khoảng thời gian đáo
hạn (đối với lãi suất cố
định) hay thời gian còn
lại đến khi tái định giá
(đối với lãi suất thả nổi)
để tính khe hở lãi suất.
Thủ công
•
Báo cáo độ Báo cáo về độ nhạy cảm
nhạy
cảm của biên độ lãi suất cho
biên độ lãi thấy ảnh hưởng khi lãi
suất thay đổi
suất
Thủ công
Đánh
giá
ảnh Hàng tháng
hưởng đối với thu
nhập lãi thuần khi
lãi suất thay đổi
trong các tình
huống khác nhau
7. Rủi ro thị trường
7.1.
Khung quản lý rủi ro thị trường
Mục đích của quản lý rủi ro thị trường là giảm thiểu lỗ của ngân hàng do những
biến động về giá của các tài sản mà ngân hàng hiện có.
Khung quản lý rủi ro thị trường bao gồm năm nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc
Phần
1
Chiến lược hoạt động kinh doanh và đầu tư
7.2
2
Xác định rủi ro thị trường trong các hoạt động của Vietcombank
7.3
3
Thực hiện các đánh giá cần thiết đối với các khoản đầu tư tiềm năng
và kiểm soát các khoản đầu tư hiện có
7.4
4
Đảm bảo đa dạng hoá cần thiết đối với các khoản đầu tư
7.5
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
78
5
Hệ thống hạn mức giao dịch và đầu tư rõ ràng và bắt buộc
7.6
Khung quản lý này chỉ đề ra những nội dung cơ bản đối với rủi ro thị trường liên
quan đến những biến động về giá của chứng khoán đầu tư. Nội dung quản lý rủi
ro liên quan đến rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất đã được đề cập trong các phần
riêng của Cẩm nang này.
7.2.
Chiến lược hoạt động kinh doanh và đầu tư
Chiến lược đối với hoạt động kinh doanh và đầu tư cần bao gồm những hướng
dẫn cụ thể về:
•
Mức độ mà hoạt động kinh doanh và đầu tư đươc coi là chủ chốt (hay không
chủ chốt) đối với hoạt động của ngân hàng, nhất quán với chiến lược hoạt
động của ngân hàng
•
Chính sách liên quan đến các loại công cụ tài chính mà ngân hàng được phép
kinh doanh hay đầu tư và phòng ban có trách nhiệm đối với các hoạt động
này.
•
Mục tiêu của ngân hàng khi tham gia và một giao dịch kinh doanh hay đầu tư
nào đó. Lý do mà Ngân hàng tham gia vào một hoạt động cụ thể có thể la f:
a) Lý do chiến lược, như đầu tư vào Công ty chứng khoán hay Công ty cho thuê
tài chính Vietcombank, đây là một phần chiến lược của ngân hàng nhằm
cung cấp dịch vụ trong các hoạt động này.
b) Lý do đầu cơ, như đầu tư ngắn hạn vào chứng khoán niêm yết để thu lợi
nhuận ngắn hạn.
c) Để thu cổ tức hay lãi do cổ phần tăng giá trong trung/dài hạn.
d) Để duy trì khả năng thanh khoản của các chứng khoán có thể giao dịch trên
thị trường để thu được mức lợi nhuận hợp lý.
e) Cho mục đích xã hội, như mua cổ phần trong các tổ chức tài chính nhỏ hơn
theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước hay Bộ tài chính để truyền kinh
nghiệm quản lý của Vietcombank cho các tổ chức này.
7.3.
Xác định rủi ro thị trường
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
79
Rủi ro thị trường là rủi ro do thay đổi bất lợi trong giá thị trường, ví dụ như tỷ
giá hối đoái, lãi suất hay giá vốn. Rủi ro thị trường phát sinh do thay đổi trong
các điều kiện thị trường và biến động thị trường. Phần này sẽ chỉ đề cập đến rủi
ro thị trường liên quan đến giá đầu tư vốn và đầu tư chứng khoán, gọi chung là
“rủi ro giá đầu tư”
Rủi ro giá đầu tư là mất mát tiềm tàng do những thay đổi bất lợi trong giá trị các
khoản đầu tư mà ngân hàng nắm giữ. Rủi ro đầu tư có thể được phân loại thành:
•
Rủi ro giá đầu tư chung, liên quan đến mức độ nhạy cảm của giá trị danh
mục đầu tư đối với thay đổi chung trong giá tài sản của một nhóm tài sản.
Như vậy, rủi ro chung này không thể giảm đi khi đa dạng hoá đầu tư trong
một nhóm tài sản. Những chỉ số lớn, như chỉ số VN-Index, chỉ số Dow Jones
và FTSE-100, bao gồm rủi ro thị trường chung và cho thấy mức biến động
của thị trường vốn trên cơ sở tổng thể.
•
Rủi ro giá đầu tư cụ thể, thể hiện phần biến động giá của một khoản đầu tư cụ
thể được quyết định bởi những đặc điểm cụ thể của người phát hành. Rủi ro
này khác với những dao động trong giá chung của thị trường và có thể giảm
khi đa dạng hoá đầu tư. Bằng cách thiết lập một danh mục với số lượng lớn
các khoản đầu tư, rủi ro cụ thể này có thể giảm đi rất nhiều vì những dao
động cụ thể trong giá cả của một loại chứng khoán sẽ bị loại bỏ giao động
ngược chiều trong giá của một loại chứng khoán khác và chỉ còn lại rủi ro giá
đầu tư chung.
Các yếu tố khác ảnh hưởng tới rủi ro giá đầu tư bao gồm:
•
Tính thanh khoản của thị trường – sự tồn tại của một thị trường chứng khoán
chính thức và phát triển với lượng giao dịch lớn có nghĩa là giá đưa ra của
chứng khoán đáng tin cậy hơn là trong trường hợp chứng khoán đó được giao
dịch trên thị trường không chính thức và không thường xuyên như trong
trường hợp giao dịch các chứng khoán không niêm yết.
•
Rủi ro hối đoái – sự biến động của một loại tiền tệ có ảnh hưởng trực tiếp tới
biến động của giá đầu tư chứng khoán bằng loại tiền tệ đó
•
Rủi ro quốc gia – rủi ro liên quan đến quốc gia của người phát hành sẽ ảnh
hưởng tới biến động giá đầu tư chứng khoán. Ví dụ khủng hoảng kinh tế khu
vực và chính sách của Chính phủ hạn chế chuyển vốn đầu tư.
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
80
7.4.
Thực hiện đánh giá cần thiết đối với các khoản đầu tư tiềm năng và
kiểm soát các khoản đầu tư hiện có
Trước khi đầu tư vào một chứng khoán nào đó, ngân hàng cần phân tích, đánh
giá mọi mặt về khoản đầu tư đó. Mục đích của việc đánh giá này cũng tương tự
như phân tích tín dụng –qua phân tích kỹ lưỡng các thông tin cần thiết, ngân
hàng sẽ nhận biết được rõ ràng hơn những nhân tố ảnh hưởng tới sự giảm giá tài
sản trong tương lai. Mức độ chi tiết của phân tích này tuỳ thuộc vào lượng tiền
đầu tư và như đã đề cập ở trong phần sau đây, bản chất của khoản đầu tư.
Chứng khoán đầu tư ngắn và trung hạn
Những chứng khoán trong nhóm này thường bao gồm công trái, trái phiếu kho
bạc, trái phiếu do ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành cũng như trái
phiếu của các quỹ quản lý ngoại tệ (như Citibank, New York) và các quỹ uỷ thác
đầu tư khác. Các chứng khoán đầu tư này cần được đánh giá dựa trên các tiêu
chí sau:
•
Rủi ro tín dụng liên quan đến bên phát hành trái phiếu là gì? Nếu bên phát
hành trái phiếu là một tổ chức tài chính hay một công ty, rủi ro tín dụng có
thể được đánh giá sử dụng Hệ thống chấm điểm tín dụng. Nếu bên phát hành
là cơ quan Chính phủ thì việc chi trả có được Chính phủ bảo đảm hay không?
Nếu rủi ro tín dụng ở mức không thể chấp nhận được, bên phát hành có thể
chấp tài sản hay không?
•
Có thị trường thứ cấp cho chứng khoán này khi Ngân hàng muốn bán chứng
khoán trước hạn hay không?
•
Ngân hàng có nắm giữ chứng khoán nào của bên phát hành này trước đó hay
không và ngân hàng đã gặp phải khó khăn nào không lường trước được?
•
Nếu các chứng khoán là do quỹ uỷ thác đầu tư phát hành thì bản chất của các
khoản đầu tư trong quỹ đó là gì và chúng có bao gồm các công cụ phái sinh
hay không?
•
Các yếu tố rủi ro khác có tồn tại hay không, ví dụ như rủi ro hối đoái hay rủi
ro quốc gia?
•
Lãi từ khoản đầu tư này có tính cạnh tranh so với các khoản đầu tư khác với
các điều khoản tương tự hay không?
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
81
Nhân viên khối phòng Vốn là những người phù hợp nhất để thu thập các thông
tin cần thiết phục vụ cho việc phân tích trên. Do các chứng khoán này thường có
lãi suất cố định và thời gian cố định, Ngân hàng thường không thể thanh toán
chứng khoán trước hạn. Do đó, việc giám sát liên tục các khoản đầu tư đó sẽ chỉ
chú trọng vào việc nhận biết các yếu tố quan trọng có thể gây ảnh hưởng tới khả
năng thanh toán chứng khoán khi đáo hạn và thu lãi đúng hạn.
Cổ phiếu niêm yết và các khoản đầu tư dài hạn.
Các khoản đầu tư trong mục này bao gồm cổ phiếu giao dịch trên Trung tâm
giao dịch chứng khoán Việt Nam, tham gia vốn vào các công ty cổ phần và đầu
tư vốn vào các công ty không niêm yết. Cổ phiếu và đầu tư vốn cần được đánh
giá dựa trên các chỉ tiêu sau:
•
Bản chất ngành mà doanh nghiệp hoạt động là gì, triển vọng của ngành như
thế nào và vị trí của doanh nghiệp so sánhiệm vụới các đối thủ cạnh tranh ra
sao?
•
Tình hình tài chính gần đây của doanh nghiệp như thế nào và khả năng hoạt
động trong 2 đến 3 năm tới ra sao?
•
Doanh nghiệp đã có kế hoạch hoạt động chi tiết hay chưa và chiến lược hoạt
động có gắn liền với dự toán tài chính hay không?
•
Nếu doanh nghiệp đã có dự toán tài chính thì những giả thiết liên quan có
hợp lý hay không?
•
Kinh nghiệm của Ban lãnh đạo như thế nào và kinh nghiệm, uy tín của họ ra
sao?
•
Tỷ lệ giá/lợi nhuận (tỷ lệ PE) của cổ phiếu như thế nào và tỷ lệ này so với
các doanh nghiệp cùng ngành ra sao?
•
Nếu doanh nghiệp là một ngân hàng hay tổ chức tài chính, việc mua cổ phần
có mang lại lợi ích chiến lược như khả năng cung cấp dịch vụ đan chéo với
Vietcombank, hay giảm cạnh tranh trực tiếp trong một số khu vực hay sản
phẩm hay không.
Phòng đầu tư có trách nhiệm đánh giá các khoản đầu tư mới và trình Ban lãnh
đạo Ngân hàng phê duyệt. Phòng này cũng có trách nhiệm giám sát các khoản
Cẩm nang quản lý rủi ro - VCB
82