Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 91 trang )
Nửa thân trên của tua bin thường bố trí 4 ÷ 8 bu lông chuyên dùng, để tháo nửa trên
khỏi nửa dưới. Để đặc chính xác các nửa thân tua bin khi lắp ráp thì các mặt bích của các
phần ghép bố trí từ 2 ÷ 8 bu lông định vị.
Thân tua bin cao áp trong hệ động lực hơi nước được minh hoạ ở hình 1.1.
Nửa thân trên 8 và dưới 20 được đúc bằng thép và ghép lại bằng các mặt bích. Mỗi
nửa thân tua bin lại được chế tạo thành hai phần và ghép với nhau bằng một mặt bích lắp
ráp theo phương thẳng đứng 6. Nửa dưới thân dựa lên bộ dọc trục thông qua các đế của
nó. Trong hệ trên có bố trí các hốc nửa hình trụ 1 và 12 để đặt ở đỡ rôto và hốc 14 để đặt
ổ chặn. ở khu vực thân trên, tại các ổ đỡ và chặn đều có các nắp tháo ra được 2 và 13,
thân phía mũi 17 được liên kết với hệ 16 bằng lắp ráp có thể trượt được thành đảm bảo sự
đồng tâm của thân và bệ 16. Khi có biến dạng nhiệt thân tua bin, phần sau của thân được
hàn với bệ 25, bệ mũi được đặt trên trụ đỡ mềm 15, còn bệ sau được ghép cứng với bệ
dọc trục.
Phía trong thân có chế tạo các hốc hình vòng 3 và 11 để bố trí hai bộ làm kín phía
ngoài, các rãnh vòng 7 để đặt các bánh tĩnh và 9 để đặt các cánh hướng của tầng điều
chỉnh.
Về phía nạp hơi ở phần thân trên được hàn với hộp ống phun 19 của nhóm ống phun
thứ nhất.
Phần thoát hơi của thân 4 đúc dạng xoắn ốc gắn với đoạn ống 23, qua đó hơi sẽ
chuyển sang tua bin áp suất thấp. Ngoài ra còn có đoạn ống 22 để hút hơi từ tua bin cao
áp đến bầu ngưng, ống 21 để trích hơi đi qua ống nhiệt, ống 18 và 21 để trích hơi tới các
bộ phận làm kín phía ngoài.
Thân tua bin phải tiếp xúc với hơi có thông số cao chịu các rung động và lực truyền ra
từ các ổ đỡ, ổ chặn khi tua bin làm việc. Nói chung các lực tác dụng lên thân tua bin rất
khó xác định và sinh ra ứng suất thay đổi phức tạp.
- ứng suất do tác dụng của áp suất hơi có giá trị thay đổi rất lớn từ cửa nạp hơi đến
tầng cuối của tua bin, ở khu vực nạp hơi, các tầng đầu, vật liệu thân chịu lực tác dụng từ
phía trong thân thường ra ngoài, ở cuối phần thấp áp do áp suất bị giảm rất mạnh, lực tác
dụng lại từ phía ngoài vào thân. Ngoài ra ứng suất này còn bị thay đổi ngay trong từng
hốc của thân và thay đổi khi chế độ công tác của tua bin thay đổi.
- Ứng suất phát sinh do các bánh tĩnh truyền lực tới, vì các bánh tĩnh chịu một lực tác
dụng do chênh lệch áp suất phía trước và sau nó, ứng suất này cũng thay đổi theo suốt
chiều dài thân.
4
Hình 1.1. Thân của một tua bin cao áp
1,12. Khoang ổ đỡ
10. Khoang chứa hộp ống phun
2,13. Nắp ổ đỡ
14. Khoang ổ chặn
3,11. Khoang đặt bộ làm kín
15. Bệ đặt tua bin
4. Khu vực hơi ra
16. Bệ đỡ cho trượt
5. Khu vực hơi vào
17. Thân tua bin phía mũi
6. Bích lắp ghép
18,24. Trích hơi đến bộ làm kín
7. Khu vực dải phân cách(rãnh
vòng)
8. Nửa thân trên
20. Nửa thân dưới
21. Trích hơi tới bầu hâm
22. Trích hơi tới bầu ngưng
9. Hộp cánh hướng tầng điều
chỉnh
5
23. Cửa hơi ra tua bin thấp áp
-Ứng xuất nhiệt do chênh lệch nhiệt độ theo suốt chiều dài thân, phía trong và phía
ngoài thân. Đặc biệt, ứng suất nhiệt rất lớn khi cho hơi vào tua bin lúc nó còn nguội, khi
công sấy và thay đổi công tác.
- Ngoài ra ứng suất phát sinh còn do trọng lượng bản thân, trọng lượng các chi tiết
gắn với thân như ống mặt bích, bích chứa.v.v...
Thân tua bin hơi tàu thủy hiện đại thường được chế tạo bằng cách đúc hoặc làm các phần
từ thép. Thân đúc bằng gang chỉ sử dụng cho tua bin công tác cao hơn 693 oK thù dùng thép
hợp kim, nhiệt độ hơi lớn hơn 7730K thì dùng thép Crôm – Molipđen mác 20XM.
1.1.2 Kết cấu ống phun tầng đầu tiên
Ống phun là bộ phận biến đổi thế năng của chất công tác thành động năng sau đó
động năng này sẽ chuyển hóa thành cơ năng trong rãnh cánh động.
Theo hình dạng ống phun người ta chia ra thành:
+ Ống phun thu hẹp: có diện tích tiết diện rãnh ống giảm dần từ lối vào đến lối ra.
+ Ống phun loe rộng: có diện tích tiết diện rãnh ống đầu tiên giảm nhỏ dần đến tiết
diện bé nhất sai đó diện tích tiết diện lại tăng dần.
Ống phun thu hẹp sử dụng khi hơi công tác có tốc độ chảy ở cửa ra ống bằng hoặc
nhỏ hơn tốc độ âm thanh, ống phun loe rộng được sử dụng để biến đổi tốc độ dòng hơi
công tác có tốc độ lớn hơn tốc độ âm thanh ở cửa ra ống.
Lưu ý rằng tốc độ chảy lớn hơn tốc độ âm thanh có thể đạt được ở ống phun thu hẹp
bằng cách sử dụng vùng cắt lệch ở ống phun.
Vì cánh động được bố trí xung quanh bánh động nên ống phun cũng phải bố trí theo
chu vi phù hợp trên bánh tĩnh.
Khi các ống phun được bố trí trên toàn bộ chu vi bánh tĩnh nó tạo nên một vòng ống
phun khi đó sự cấp hơi được gọi là cấp hơi toàn phần, nếu số ống phun chỉ chiếm phần
chu vi thì sự cấp hơi được cấp hơi từng phần hay cục bộ, xác định bởi tỷ số cấp hơi.
ε=
m
π . Dcp
Trong đó;
m- chiều dài cung ống phun;
Dcp - đường kính trung bình vòng ống
phun.
Hình 1.2. Phân đoạn ống phun đúc nguyên vẹn.
1.1.2.1. Ống phun tầng đầu tiên
1- Vách ống phun; 2-Ống phun; 3-Bu lông; 4-Bu
6
lông lắp ghép
Ống phun tầng đầu tiên của bất kỳ tua bin nào trong tổ hợp tua bin cũng được gắn
trực tiếp vào bên trong thân tua bin hoặc gắn vào hộp ống phun đặc biệt bố trí trong thân
tua bin.
Vài dạng kết cấu ống phun tầng đầu
tiên, hình 3.3 là một ví dụ về một phân
đoạn ống đúc.
Phân đoạn ống phun này được đúc
nguyên vẹn, hình 1.2a thành một cụm
các ống phun. Phân đoạn này có 4 ống
phun kiểu rãnh tiết diện tròn ở lối vào và
tiết diện chữ nhật ở lối ra. Phân đoạn này
gắn với thân bằng các mặt bích và các
guzông 3.
Hình 1.3 Phân đoạn ống phun lắp ghép
1-Ống phun; 2.3-Thân ống phun; 4-Bu lông lắp ghép;
5-Lỗ ghép ống phun;6-Chốt định vị; 7-Lỗ dây cân bằng
Phân đoạn ống phun đúc, được chế tạo bằng gang hoặc đồng thanh, nó rất đơn giản
khi chế tạo tuy nhiên thành rãnh trong ống phun rất khó làm bóng nên tổn thất dòng chảy
qua đó lớn nên hiện nay ít được dùng.
Hình 3.3b là kết cấu phân đoạn ống phun có vách ống phun đúc, ở đây các vách ống
phun 1 được dập bằng thép rồi chế tạo phân đoạn ống phun 2.
Để liên kết chắn chắn giữa cụm thép của các vách ống phun ở gờ cánh người ta chế
tạo các gờ tròn 3.
Phân đoạn ống phun ghép với thân bằng các guzông.
Ưu điểm của kết cấu này hơn kết cấu ở hình 1.2 vì hai bề mặt của rãnh ống phun
(vách cánh) có thể được làm bóng dễ dàng làm giảm tổn thất dòng chảy.
Phân đoạn ống phun kiểu lắp ghép được minh họa ở hình 1.3.
Phân đoạn này được cấu tạo từ các cánh ống phun 1 và hai vòng kẹp phía ngoài 2
phía trong 3, mỗi cánh có 2 chốt 4 và 2 lỗ thông với 5 để liên kết với vòng kẹp nhờ đinh
tán 6. Khi lắp ráp thân đoạn ống phun, các chốt 4 được đặt vào các lỗ, các lỗ này được
chế tạo sẵn ở vòng kẹp trên và dưới.
Các tấm đệm hình tròn 7 và 8, các tấm này ghép với hai vòng kẹp nhờ 2 - 3 đinh tán.
Phân đoạn ống phun này được ghép với thân 9 bằng các guzông 10 và có tám ống phun.
7
Tất cả các chi tiết của phân đoạn này có thể được chế tạo từ thép. Nhược điểm của kết
cấu này là việc lắp ráp điều chỉnh các cánh, vách với vòng kẹp rất phức tạp và khó có thể
tránh được sự rò lọt hơi qua những vị trí
không khít giữa các chi tiết lắp ráp do chế
tạo không chính xác và biến dạng nhiệt.
Ống phun đặt đơn lẻ từng chiếc được
minh họa ở hình 1.4.
Những ống phun này được chế tạo
bằng các phay từ phôi hình vòng rồi cắt Hình 1.4. Ống phun hoàn chỉnh từng chiếc
thành từng mảnh chi tiết có kích thước cần
1-Ống phun; 2-3-Thân ống phun; 4- Thân
thiết theo cung tròn. Hình 3.5a là ống phun
tua bin; 5- Tấm đỡ; 6- Gu lắp ghép; 7-Dây
đã được chế tạo hoàn chỉnh, hình 3.5b là lien kết; 8- Gờ ép kín ống phun
cách ghép nó vào thân tua bin, ống phun 1
được chế tạo có cung gờ 2 và 3, gờ 2 sẽ được ghép vào rãnh vòng phù hợp trong thân tua
bin 4, gờ trong 3 được tấm đỡ 5 ốp lại nhờ guzông 6 có dây liên kết 7. Gờ 8 đảm bảo ép
kín các ống phun. Tùy chọn số ống phun mà trong thân tua bin có được cung ống phun
hay cả vòng ống.
Ưu điểm loại ống phun này cho phép độ bền prôphin cao, bề mặt được làm bóng tốt,
nhược điểm phức tạp khi chế tạo, lắp ráp, khó tránh rò lọt hơi qua khe hở các mặt lắp ráp.
1.1.2.2. ống phun bố trí tại các bánh tĩnh của các tầng trung gian
Kết cấu ống phun bố trí tại các bánh tĩnh
được xác định bởi kết cấu của bánh tĩnh
(xem mục 1.1 và 1.2). Sau đây là dạng
ống phun chế tạo cả bộ (Hình vẽ
1.5).Tuỳ thuộc vào cách ghép với bánh
tĩnh mà có thể có các kết cấu khác nhau,
Hình 1.5là nhóm ống phun bao gồm
các ống phun phay từng chiếc 1 có phần
chuôi 2 được đặt vào gờ vòng của bánh
Hình 1.5. Thiết bị ống phun chế tạo cả bộ
tĩnh 3 và được gia công bằng các đinh
1- Ống phun; 2- Phần lắp ghép; 3- Bánh tĩnh;
tán 5. Rãnh ở trên cung 6 chế tạo phù
4- Dãy ống phun
hợp với gờ lồi phía ngoài để liên kết ống
phun với cung 6.
8
Các ống phun có các gờ 2 và 3, cánh này được hàn vào bánh tĩnh. Các gờ ngoài 2
được hàn với vách của bánh tĩnh, các ống phun được cắt ra từ dải prophin dài làm giảm
giá thành chế tạo và hiện nay đang được sử dụng rộng rãi.
1.1.3 Kết cấu bánh tĩnh, cánh hướng
Bánh tĩnh được dùng trong các tua bin xung kích nhiều tầng để phân chia hốc phía
trong thân tua bin, thành các tầng áp suất riêng rẽ, đồng thời trên bánh tĩnh có bố trí dây
ống phun hoặc cánh hướng.
Mỗi bánh tĩnh được chế tạo từ hai nửa: nửa phía trên bố trí ghép với nửa thân trên,
nửa phía dưới ghép với nửa thân dưới, loại này đã làm giảm nhẹ việc chế tạo lắp ráp.
Bánh tĩnh được ghép vào rãnh vòng phía trong các nửa thân tua bin với các khe hở
theo phương hướng kính và dọc trục lần lượt là 0,1 ÷ 0,5 mm. Vị trí của bánh tĩnh đựơc
bố trí trong các cánh vòng nhờ các chất đặc biệt
Đôi khi nửa bánh tĩnh được treo trên trục. Trường hợp này giữa bánh tĩnh và lỗ theo
hướng kính có khe hở 1 ÷ 2 mm điều ấy làm đơn giản hóa việc đinh tâm giữa bánh tĩnh
với thân tua bin và cho phép sự dãn nở nhiệt tự do của bánh tĩnh khi bị sấy nóng, ở phần
giữa bánh tĩnh có tiện gờ để ghép bộ làm kín phía trong.
Bánh tĩnh được cấu tạo thành từ phần gờ, đai phía ngoài phụ hợp với rãnh trong thân
tua bin. Tổ hợp các ống phun, vách và bộ làm kín đặt ở vị trí trục rôto đi qua lỗ tâm bánh
tĩnh, kết cấu bánh tĩnh được xác định bởi
phương pháp ghép nhóm ống phun với
phần đai ngoài và phần vách.
Các tua bin tàu thủy áp dụng các kiểu
bánh tĩnh.
Kết cấu:
Hình 1.6.Kết cấu bánh tĩnh
- Chế tạo từ thép đúc hoặc gang đúc;
1- Đai; 2- Cánh ống phun;
- Hàn kết hợp với phay hoàn chỉnh các
bộ cánh;
- Đúc kết hợp với phay hoàn chỉnh cả bộ cánh;
- Hàn lại từ các chi tiết cán hoặc rèn.
Hình 1.6. Minh họa một nửa bánh tĩnh đúc
Toàn bộ nửa bánh tĩnh được ghép với gờ đai 1, các cánh ống phun 2 cũng có kết cấu
gờ chân để ghép với gờ đai 1 và vách 3.
9
Người ta chỉ dùng vách bánh tĩnh và gờ đai, với các cánh chế tạo đúc, vì rằng nếu khi
rót thép (để chế tạo bánh tĩnh từ thép đúc) thì hầu như không tránh khỏi cháy các gờ rìa
mỏng của các cánh hướng đa số bố trí ở bên trong khuôn đúc cho tới khi khuôn điền đầy
kim loại lỏng. Nên vật liệu bánh tĩnh tốt nhất là gang.
Hiện nay bánh tĩnh được chế tạo hàn, các chi tiết gờ đai, cánh ống phun và vách đều
chế tạo bằng cánh cán hoặc rèn rồi hàn lại với nhau thành bánh tĩnh sau đó đem ủ để khử
ứng suất dư.
Bánh tĩnh cũng chịu tác dụng của hơi có thông số cao như thân và các tác dụng rung
động, biến dạng nhiệt, uốn bánh tĩnh v.v.... Bánh chịu lực uốn giảm dần từ các tầng đầu
đến cuối nên vật liệu chế tạo bánh tĩnh cần đảm bảo độ bền cơ học.
Bánh tĩnh được đúc bằng gang C18 ÷ 36; C21 ÷ 40 và C22 ÷ 44 với nhiệt độ dòng hơi
nhỏ hơn 2500C ÷ 3000C. Các cánh ống phun được dập từ thép Niken hoặc Crôm Niken.
ống phun chế tạo từ thép đúc và bánh tĩnh dùng phương pháp hàn và làm việc với nhiệt
độ nhỏ hơn 4000C thì dùng thép các bon mác 15 - 30 hoặc 40 nếu điều kiện công tác nặng
nề hơn thì dùng thép Crômmôlipđen mác 15 XM, 20XM, 15XMA.
1.2 Kết cấu phần động
1.2.1 Kết cấu rô to
Rôto (phần quay) của tua bin bao gồm: Các đĩa hoặc trống quay, cánh công tác, trục,
gờ chặn, khớp mối liên kết. Trên Rôto của hai tua bin phản kích còn bố trí các piston
giảm tải (hay piston cân bằng).
Theo kết cấu, Rôto được chia thành Rôto dạng trống và liên hợp đĩa - trống.
Việc lựa chọn kết cấu Rôto phụ thuộc vào kiểu loại Tua bin. Trong tua bin xung kích
thường dùng Rôto dạng đĩa phản kích - dạng trống.
Trong tua bin liên hợp xung - phản kích, người ta dùng Rôto liên hợp.
Theo phương pháp chế tạo, người ta chia ra Rôto rèn và hàn;
Theo số vòng quay công tác, Rôto được chia thành Rôto "cứng hoặc mềm":
Rôto "cứng" công tác ở số vòng quay thấp nhiều so với vòng quay tới hạn.
Thực tế số vòng quay công tác ở chế độ quay định mức là
n cøng =
n kp
1,2 ÷1,3
n mÒm = (1,5 − 2 ) n kp
10
Với nkp là vòng quay tới hạn. Vòng quay rô to được gọi là vòng quay tới hạn khi mà
tại giá trị vòng quay đó, dao động riêng và dao động cưỡng bức trùng nhau. ở vòng quay
tới hạn, rôto đạt đến vòng cộng hưởng, rung động với biên độ dao động tăng lên và dẫn
tới phá hỏng rôto.
Đa số các tua bin lai chân vịt có rôto dạng "cứng", khi đó ứng suất phát sinh do sự
đồng thời uốn xoắn rô to đều nằm trong giới hạn cho phép. Rôto "mềm"ứng dụng ở các
tua bin lai máy phát điện, công tác với số vòng quay không đổi. Khi sử dụng rôto "mềm",
đường kính trục ở các vị trí đi qua các vị trí bánh tĩnh, ổ đỡ, bộ làm kín phía ngoài nhỏ
hơn nên giảm được trọng lượng rô to, làm giảm rò lọt khi đi qua bộ làm kín cũng như
giảm lượng dầu bôi trơn.
1.2.1.1. Rôto dạng đĩa
Rôto dạng đĩa được chế tạo bằng rèn. Các đĩa được rèn liền với trục hoặc rèn từng chi
tiết (đĩa, trục) riêng rẽ. Người ta thường chế tạo rôto này khi đường kính đĩa nhỏ hơn
1000 mm. Các sơ mi làm kín, vòng kín hơi và vòng giữ dầu bôi trơn, gờ chặn, khớp nối
và các chi tiết khác thường được chế tạo rồi ghép có độ dôi lên trục.
Rôto dạng đĩa chế tạo từng chi tiết riêng rồi ghép lại trên trục quay trơn nhẵn hoặc
bậc bằng cánh ép chặt các đĩa với trục và các đĩa với nhau.
Hình 1.7 là một rôto chế tạo rèn liền của tua bin thấp áp trong một tổ hợp tua bin.
Rôto gồm các đĩa 6 của tua bin tiến và đĩa 7 của tua bin lùi ở phía ngoài gờ đã có
khoan các rãnh 8 để bố trí tải trọng khi cân bằng rôto. Các lỗ 5 trên đĩa làm giảm lực dọc
trục. Trên chu vi các đĩa đều tạo rãnh dạng chữ T để cấy các cánh động.
Ngõng trục 4 của rôto được đặt trong ổ đỡ. Trên trục có gờ chặn 3 để bố trí trong ổ
chặn trục và một phần khớp nối 1 để truyền công suất ra hộp giảm tốc. Lỗ khoan theo
đường tâm 2 để giảm trọng lượng, sản phẩm rèn.Về phía mũi của rôto có gắn trục 10 cùng
với bánh xe 11 của đồng hồ đo tốc độ quay. Các rãnh 12 trên trục để làm kín hơi và không
cho hơi xâm nhập vào dầu bôi trơn.
Trường hợp đường kính của đĩa tua bin lớn hơn 1000 mm thì rôto được chế tạo rời.
Khi được gia nhiệt, đường kính tăng lên chút ít cho phép trượt đĩa vào trục, vì vậy nên có
độ dôi. Để cho đĩa không xoay quanh trục thì phải chêm đặt đối xứng quanh trục vừa đảm
bảo cân bằng rô to tốt hơn.
11
Hình 1.7 Kết cấu rô to kiểu rèn liền
1-Khớp nối với phụ tải; 2- Lỗ xuyên tâm; 3-Vành chặn; 4-Ngõng trục; 5-Lỗ cân bằng; 6Bánh
động đĩa
hành
Việc ghép
cótrình
thể tiến;
thực hiện trực tiếp trên trục rôto hoặc dùng các sơ mi ép hình
côn. Khi ghép trực tiếp thì chế tạo trục bậc, trên đó người ta ghép từ 1 đến 2 đĩa. Trước
khi ghép đĩa lên trục người ta gia nhiệt đĩa lên
tới 150 ÷ 2000C trong dầu nhờ các máy biến áp
chuyên dùng. Các đĩa phía ngoài cũng được ép
lên trục bằng các sơ mi ép chặt.
Hình 1.8 là dạng rô to kiểu đĩa và cách ghép
chặt các đĩa lên trục nhờ các sơ mi hình côn, độ
căng (chặt) có được nhờ ép sơ mi 1 tới một độ
sâu xác định, vòng định vị 2 đảm bảo khe hở
giữa hai đĩa liền nhau trong giới hạn 0,10 ÷ 0,15
mm
1.2.1.2 Rôto dạng tang trống
Rô to dạng tang trống theo kết cấu được
chia làm 3 loại:
* Rèn liền và có lỗ xuyên tâm, ứng dụng cơ
bản cho tua bin phản kích, vòng quay cao,
đường kính trống không lớn;
Hình 1.8. Rô to kiểu ghép đĩa
1- Sơ mi ép; 2-Vòng định vị; 3-Bánh
đĩa; 4- cánh động
* Chế tạo từng chi tiết bằng cách rèn riêng rẽ một hoặc hai ngõng trục;
* Chế tạo từng chi tiết rồi ghép lên trục hoặc hàn lại từ các đĩa chế tạo rời.
12
Hình 1.9 là một rô to tang trống được hàn lại từ các đĩa ngõng trục chế tạo rời.
Phần trục phía lái 1 được rèn liền với một piston giảm tải 2, còn trục phía mũi 5 được
rèn liền với đĩa 4. Vành cánh điều chỉnh kiểu đĩa có vành đôi 3 được chế tạo bằng cách
rèn riêng rồi hàn với tang trống.
Đối với rôto dạng tang trống tốc độ vòng cho phép nhỏ hơn 150 m/s. Loại rô to được
hàn lại từ các đĩa có thể tốc độ vòng cho phép đạt tới 250 m/s.
3.2.1.2. Rôto dạng liên hợp
Được sử dụng cho các tua bin công suất lớn. Phần chịu tải lớn nhất của rôto được chế
tạo theo kiểu đĩa, phần chịu tải nhỏ hơn theo kiểu trống. Các rôto liên hợp thường gặp,
trục về hướng áp suất cao được rèn liền với đĩa, về phía áp suất thấp là các đĩa chế tạo rời
rồi ghép lên trục.
Trục tua bin được chế tạo từ thép Các bon, bằng cách rèn liền cho các tua bin phụ
công tác với ứng suất không lớn lắm. Đối với trục của các tua bin lai chân vịt được chế
tạo từ thép hợp kim có phụ gia Niken, Crôm, Molipđen,Vanađi.
ứng suất cho phép do tác
dụng đồng thời của mô men
uốn và xoắn đối với trục
dùng thép Các bon là 350 ÷
400 kG/cm2, thép hợp kim là
650 kG/cm2.
Các chi tiết riêng rẽ của
rôto (đĩa, khớp nối, gờ chặn
Hình 1.9 Rô to kiểu tang trống
v.v...) phải được tiến hành
cân bằng tĩnh, còn toàn bộ
1-Phần trục lái; 2-Piston giảm tải; 3-Vành điều chỉnh; 4rôto phải tiến hành cân bằng
Bánh động
động.
Kết cấu bánh động
Bánh động hay còn gọi là đĩa công tác, đĩa động của các tua bin xung kích là bộ phận
chính truyền mô men xoắn từ cánh công tác tới trục còn cánh được gắn chặt trên bánh
động. Các bánh động chịu ứng suất cao, lực ly tâm khi công tác, ngoài ra bánh động còn
chịu tác động của hơi có thông số cao.
Đĩa công tác tạo nên từ 3 phần chính: Phần vành ngoài nơi có ghép chân cánh động,
phần may ơ. ở đây đĩa được gắn vào trục và phần vách đĩa nối vành ngoài với phần may
13
ơ. Dạng vành ngoài đĩa được xác định bởi dạng chân cánh động. Dạng may ơ và dạng
phần vách đĩa phụ thuộc vào phụ tải khi công tác. Hình 1.10 minh hoạ về các dạng đĩa
tua bin.
Hình 1.10. Các dạng bánh động
Hình 1.10 đưa ra các dạng cơ bản của bánh động tua bin. Theo hình dạng prophin
vách đĩa chúng được chia ra thành loại có chiều dày không đổi (hình 1.10a), loại có chiều
dày không đổi về vành ngoài và dạng côn ở phía còn lại (hình 1.10b) loại côn (hình 1.10c)
và loại hypecbol (hình 1.10d). Cuối cùng là loại có sức chịu lực đồng đều (hình 1.10e).
Bánh chịu lực đồng dạng chịu lực đồng đều, để chế tạo làm việc đạt tới tốc độ 400 ÷ 430
m/s ứng dụng rộng rãi trong các rôto chịu tải nặng nề của tua bin lai chân vịt.
Đường kính ngoài của đĩa trong khoảng 400 ÷ 1200 mm. Đường kính lỗ may ơ dao
động trong giới hạn 200 ÷ 450 mm, chiều dày may ơ theo hướng trục từ 70 ÷ 250 mm,
chiều dày vành ngoài theo hướng dọc trục từ 30 ÷180 mm.
Ứng suất cho phép trong đĩa công tác phụ thuộc vào thông số hơi. Nếu đĩa chế tạo
bằng thép các bon ứng suất cho phép không quá 200 MN/m 2, thép hợp kim không quá
300 MN/m2.
1.1.2. Kết cấu cánh động tua bin
Cánh động gắn ở phần vành ngoài bánh động hoặc ở trên mặt rôto đối với tua bin
phản kích.
Phần công tác: Gồm hai phía, phần lồi, phần lõm, bề mặt lồi được gọi là lưng cánh,
bề mặt lõm gọi là bụng cánh hay bề mặt công tác. Chiều dài công tác của cánh được xác
định bởi kích thước hướng kính được làm ướt bởi hơi (phần hơi quét qua).
- Phần đầu mút: (đỉnh) cánh.
- Phần chuôi cánh - nơi ghép cánh với rô to hoặc thân tua bin.
14