Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 91 trang )
- Nạp vào két góp của bầu ngưng chính bằng nước nạp tới 1/2 ống thủy. Chuẩn bị các
thiết bị tự động duy trì mực nước ngưng.
- Kiểm tra và khởi động bơm nước ngưng, chắc chắn rằng hiện tại có sự tuần hoàn
qua bộ làm mát của bơm phun tia.
- Chuẩn bị và cho hệ thống làm kín hoạt động, cho các bơm phun tia hút hơi vào công
tác.
- Nâng độ chân không trong bầu ngưng chính tới định mức, bơm dầu nhờn chạy và
tua bin đang via, điều này giúp cho sự loại không khí và hơi ẩm ra khỏi các hốc trong tua
bin.
- Sau đấy giảm độ chân không xuống 1/3 so với định mức để chuẩn bị cho việc chuẩn
bị sấy nóng tua bin nhằm đảm bảo tốc độ nhỏ vừa phải của luồng hơi qua các phần chảy
và quá trình sấy các chi tiết không bị đột ngột (quá nhanh).
Một số công việc chuẩn bị đối với tua bin
- Quan sát toàn bộ động cơ, cất dọn các vật lạ, các dụng cụ gá lắp để lại đúng vị trí
của nó.
- Kiểm tra độ hoàn hảo của bộ chỉ báo, dãn nở dọc trục và hướng kính của rô to, thân
tua bin, của các ổ trượt giảm tốc bánh răng (nếu có). Kiểm tra các áp kế, nhiệt kế trên thân
tua bin. Tất cả các trị số về vị trí, khe hở ở một số vị trí qui định của rô to, thân tua bin,
nhiệt độ thân.... cần được ghi vào nhật ký máy.
- Nới lỏng rồi đóng lại ngay các van trên đường ống chính tới tua bin. Khi đóng chặt
van xong nên nhích ra một chút để tránh kẹt do dãn nở khi sấy đường ống.
- Tháo phanh hãm trục.
- Đo khe hở trên các trục di động của tua bin (dùng que chuyên dùng, hoặc đọc chỉ số
ở bộ chỉ báo).
- Kiểm tra rồi đưa hệ thống dầu bôi trơn vào công tác. Chú ý về nhiệt độ dầu nếu quá
thấp cần cho hâm dầu.
- Đóng mạch máy via trục, via trục đi 1/3 vòng, ghi lại trị số dòng điện ở động cơ lai
máy via vào nhật ký máy. Cho via cả hai hành trình tiến và lùi. Nếu thấy dòng điện cao
quá bình thường cần dừng máy via.
- Đồng thời chuẩn bị thiết bị ngưng (đã trình bày ở trên), cho bơm phun tia hoạt
động...
- Đưa hơi đã công tác từ các máy phụ về bầu ngưng chính.
38
- Khẳng định các van ma nơ, van đóng nhanh vẫn đóng chặt, kiểm tra thiết bị khóa
liên động giữa các van này với máy via trục.
Một số công việc chuẩn bị đối với hệ đường ống dẫn hơi và hệ thống điều khiển
- Khẳng định rằng các van chặn 1 trên đường ống hơi chính đang đóng chặt, còn van
xả 4 trên đường ống dẫn thì đang mở
- Tiến hành xem xét toàn bộ phía ngoài, đường ống dẫn, các van an toàn, van giảm
áp,...
- Kiểm tra đóng và mở hoàn toàn của van ma nơ, van đóng nhanh và van ống phun.
Nếu có khóa liên động giữa Têlêgraph của buồng máy với van ma nơ thì cần kiểm tra sự
công tác cuả nó.
- Sau khi cấp dầu nhờn tới hệ thống điều chỉnh, người ta ngắt rơ le chân không, mở
van đóng nhanh, kiểm tra sự công tác của van này bằng tay hoặc bằng cách giảm áp suất
dầu bôi trơn trong hệ thống hoặc bằng cách tác dụng vào rơle do độ dịch dọc trục. Sau
đấy đóng van đóng nhanh lại.
- Mở các van xả ở thân tua bin, của các bộ tách nước xả cặn ở các hộp van...
- Sấy đường ống dẫn hơi chính, van đóng nhanh bằng đường ống dẫn hơi riêng hoặc
mở các van 2 trên đường ống nhanh. Khi không có đường ống sấy riêng, có thể mở các
van chặn chính 1 từ từ và nâng chậm áp suất hơi để sấy đường ống.
- Nếu không có chỉ dẫn cụ thể, ống dẫn hơi nên sấy như sau: Đầu tiên sấy ở áp suất
hơi từ 5 ÷ 10 kG/cm2 rồi tăng dần với áp suất khoảng 1 kG/cm 2/ph hoặc ở mức tăng nhiệt
độ theo tốc độ không quá 100C/1 phút. Thời gian sấy ống dẫn hơi từ khi nguội đối với tua
bin thông số hơi công tác P = 45 kG/cm2 và T0 = 4500C từ 30 ÷ 35 phút.
- Khi xả từ các van xả nước chỉ thấy hơi thoát ra là dấu hiệu về mức hâm sấy ống đã
đồng đều và quá trình sấy kết thúc.
Sau khi chuẩn bị tốt các công việc trên và đã sấy xong đường ống dẫn hơi, người ta
chuẩn bị sấy nóng tua bin trước khi khởi động.
Một số qui định về sấy tua bin
- Việc sấy nóng tua bin trước khi cấp hơi khởi động nhằm đảm bảo sao cho sau khi
sấy, hơi công tác nạp vào tua bin sẽ không dẫn đến ứng suất nhiệt quá giới hạn cho phép,
sự biến dạng dư trong chi tiết được loại trừ, không còn khả năng làm kẹt các phần quay.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với các tua bin có kích thước lớn khởi động từ trạng thái
nghỉ lâu, mới lắp đặt. Việc sấy tua bin sau khi nghỉ lâu, sau sửa chữa lớn, mới dừng đều
39
có qui định cụ thể trong sách khai thác. Tuy nhiên những qui định đưa ra ở đây cũng đảm
bảo tính an toàn khai thác cơ bản nhất cho giai đoạn sấy nóng tua bin.
- Khi nạp hơi sấy tua bin cấm không để rô to đứng im. Vì khi này chỉ phần lớn các
thớ kim loại phía trên của rô to và thân được sấy nóng nhanh hơn điêù ấy dẫn tới cong
vênh, uốn rô to và các bánh công tác, tất cả các phần ngưng khi sấy phải được xả ra ngoài
thân. Nếu còn tích luỹ phần ngưng sẽ gây nên thủy kích.
- Các van xả trên đường ống hơi tại các bộ tách nước, tại các hộp van, các hốc thân
tua bin phải được mở ra và được xả nước ở các van này.
- Để kiểm tra sự dãn nở nhiệt của thân tua bin, loại tua bin có trụ đỡ trượt được bố trí
bộ chỉ báo. Khi dãn nở, thân tua bin sẽ tác động vào một cái chốt, chốt này tác dụng tới
một kim chỉ báo.
- Có ba phương pháp sấy nóng tua bin: Các bước sau áp dụng cho cả 3 phương pháp:
+ Cấp hơi tới các bộ làm kín, tăng độ chân không ở bình ngưng tới giá trị nhà chế tạo
yêu cầu.
+ Cho bơm phun tia hút hơi từ cá bộ làm kín, thiết lậpđộ chân không cần thiết trong
các buồng hút của bơm phun tia thông thường từ 20 ÷ 60mmHg.
+ Quay trục bằng máy via và theo dõi dòng điện của máy via.
1. Phương pháp sấy tua bin thứ nhất.
Hơi nóng đưa đến tua bin theo một đường ống chuyên dùng để sấy tua bin, đồng thời
cho via trục. Khi sấy, độ chân không trong bầu ngưng được duy trì theo chỉ dẫn của nhà
chế tạo.
Khi kết thúc quá trình sấy thì đóng van hơi sấy lại, cắt mạch máy via,tăng độ chân
không trong bầu ngưng tới định mức và tiến hành quay thật chậm rô to bằng hơi công tác
ở cả hành trình tiến và lùi bằng cách mở từ từ van ma nơ (nếu có) hoặc van ống phun và
theo dõi áp suất hơi trước ống phun. Không cho phép tăng áp suất hơi cao hơn giá trị
trong lý lịch máy.
Ngay sau khi rô to bắt đầu quay, đóng van cấp hơi thật nhanh và lắng nghe trong tua
bin, trong hộp bánh răng, Trường hợp phát hiện tiếng ồn không bình thường hay tiếng gõ,
âm thanh lạ do kẹt thì không được phép tiếp tục quay chậm rô to bằng hơi công tác lần
thứ 2 mà phải tìm và khắc phục nguyên nhân.
40
Nếu rô to không quay được ở áp suất hơi đã định thì phải đóng van nạp hơi lại ngay
và sau đó lại một lần nữa hé ở van nạp hơi. Nếu sau 3 lần thử quay rô to như vậy mà nó
vẫn không quay được thì tìm nguyên nhân mà khắc phục.
Phương pháp sấy này có thể áp dụng cho bất kỳ điều kiện đỗ tàu nào. Tuy nhiên việc
sấy tua bin theo phương pháp này bị kéo dài, và cần phải có một hệ thống chuyên dùng
riêng để sấy.
2. Phương pháp sấy tua bin thứ hai
Theo phương pháp này thì việc sấy tua bin thực hiện bằng cách dùng ngay hơi công
tác để làm quay rô to. Khi này tàu vẫn đứng in. Số vòng quay rô to trong một phút phải
tuân theo giá trị ghi trong lý lịch máy. Thường là vòng quay ứng với vòng quay ổn định
nhỏ nhất của chân vịt (5 ÷ 10 v/phút). Việc sấy này được tiến hành bằng cách rô to bởi
hơi công tác ở cả hành trình tiến và lùi.
Để phòng ngừa khả năng có thể dứt dây buộc tàu hay xích neo hay hư hỏng chân vịt
thì tàu cần được buộc, neo cẩn thận, vùng chân vịt quay không có chướng ngại vật.
Ưu điểm: Thời gian sấy tua bin nhanh, đồng đều vì hơi được cấp theo ống phun.
Nhược điểm: Gây nên sự sói mòn mạnh ở ống phun, van và các chi tiết thuộc phần
chảy do lúc đầu độ ẩm của hơi rất lớn.
.3. Phương pháp sấy tua bin thứ ba
Đây là phương pháp sấy hỗn hợp, đầu tiên đưa hơi theo đường ống riêng để sấy, đồng
thời via trục, sau đó cắt máy via và dùng hơi công tác để sấy.
Độ chân không trong bình ngưng, áp suát hơi công tác để quay chậm rô to được chỉ ra
ở trong sách hướng dẫn của hãng chế tạo.
3.1.2. Khởi động tua bin
Sau các giai đoạn chuẩn bị, kiểm tra, sấy nóng tua bin kết thúc thì tiến hành khởi
động tua bin.
Trong khoảng từ 5 ÷ 10 phút trước lúc khởi động Têlêgraph trên buồng lái phải có tín
hiệu "sẵn sàng" do buồng máy đưa lên. Sau đó đưa tất cả các máy phụ, các bơm nước
ngưng, bơm tuần hoàn vào chế độ công tác định mức và nâng độ chân không trong bình
ngưng, cho hoạt động hệ thống bôi trơn, Khi không có gì trở ngại cho việc khởi động từ
buồng máy đưa tín hiệu "Stop" lên buồng lái.
Việc khởi động được tiến hành bằng cách mở từ từ van ma nơ, dần dần tăng vòng
quay tua bin đến giá trị cần thiết.
41
Bất kỳ một trong số các van ống phun nào ở chế độcông tác bất kỳ đều phải mở hay
đóng hoàn toàn. Sự điều chỉnh sẽ vòng quay tua bin được thực hiện bằng van ma nơ. Số
các van ống phun được mở ra ở mỗi chế độ công tác cần tuân theo lý lịch máy.
Nếu sau khi khởi động tua bin mà tàu có lý do gì không chạy ngay cần tiếp tục quay
rô to ở vòng quay nhỏ nhất 5 ÷ 10 v/ph. Trường hợp trì hoãn chạy tàu lâu hơn nữa thì
giảm độ chân không tới 500 mmHg và lại bắt đầu việc sấy tua bin lần nữa.
Trong khi tăng vòng quay tua bin mà có rung động mạnh phải giảm vòng quay tới khi
rung động ấy mất đi sau 5 ÷ 10 phút thì tiếp tục tăng vòng quay.
Nếu sau 2 ÷ 3 lần tăng giảm vòng quay như trên mà rung động ấy không mất đi thì
phải dừng tua bin tìm nguyên nhân và khắc phục. Sau đó muốn khởi động lại phải theo
chỉ dẫn nhà chế tạo.
* Trong khi tăng số vòng quay cần theo dõi:
- Sự thay đổi tiếng ồn của tua bin và hộp số;
- Sự xuất hiện rung động;
- Nhiệt độ hơi vào bầu ngưng;
- Độ dãn dài rô to và dãn nở nhiệt thân tua bin;
- Hệ thống bao và hút hơi;
- Hệ thống xả nước đọng ở thân tua bin và ống dẫn;
- Nhiệt độ các ổ đỡ ổ chặn;
- áp suất dầu trong hệ thống bôi trơn và điều chỉnh khi nhiệt độ dầu nhờn ở các ổ đỡ
đạt tới 38 ÷ 400C thì mở và điều chỉnh cấp nước làm mát vào sinh hàn dầu. Duy trì mức
bình thường của nước ngưng nhờ một van tuần hoàn (nếu không có bộ điều chỉnh tự
động).
Khi tăng số vòng quay đối với các tua bin có trục mềm, cần lưu ý khi vượt qua giá trị
vòng quay tới hạn. Nguyên tắc khi vượt qua số vòng quay tới hạn là tăng nhanh số vòng
không cho động cơ công tác ở số vòng quay tới hạn hay lân cận, số vòng quay tới hạn.
Khi chuyển sang chế độ công tác ổn định của tổ hợp tua bin, người ta mở số van ống
phun cần thiết đối với chế độ đã định. Khi này để tránh tiết lưu hơi van ma nơ cần mở
hăn.
Sau khi đạt được nhiệt độ hơi cần thiết ở hộp hơi các van ống phun ta đóng hệ thống
xả của ống hơi chính của các hộp van ống phun và van đóng nhanh của các tầng công tác
với hơi bão hòa. Hệ thống xả của các tầng này luôn được xả phù hợp theo chỉ dẫn của
42
nhà chế tạo. Điều chỉnh sự công tác bình thường của các bơm phun tia, bơm nước ngưng,
hệ thống bao và hút hơi...
Việc trích hơi từ tua bin được tiến hành ở chế độ xác lập của tổ hợp.
Các nguyên công chuẩn bị, sấy và khởi động tua bin rất quan trọng tỷ mỉ sao cho ứng
suất nhiệt, độ dãn dài rô to, sự dãn nở tua bin, độ lớn rung động... Không vượt quá giá trị
cho phép.
3.2. Vận hành tổ hợp tua bin khi tàu chạy
Khi tàu chạy, người vận hành phải đảm bảo được hành trình đã đặt ra của con tàu
cũng như tính ma nơ của nó. Đảm bảo công tác tin cậy của toàn bộ tổ hợp. Đảm bảo công
suất yêu cầu ở suất tiêu hao hơi nhỏ nhất. Cần biết được số ống phun đang mở ra và các
thông số hơi trước ống phun.
Việc chăm sóc sự công tác của hệ động lực phải được tăng cường khi tàu chạy trong
điều kiện bão tố, luồng cạn, trong bằng giá, khi thí nghiệm, khi buộc tàu tại chỗ, khi tàu
chạy vòng, khi hư hỏng chân vịt, khi lai dắt tàu khác... Trong các trường hợp trên ổ đỡ
chặn dễ bị quá tải và quá nóng.
Việc duy trì áp suất và nhiệt độ hơi ở giá trị định mức sẽ đảm bảo cho sự công tác tin
cậy và tính kinh tế của tua bin. Thông thường độ sai lệch cho phép so với định mức ở áp
suất là 5%, nhiệt độ 10 ÷ 150C. Nếu việc phục hồi các thông số hơi quá khó khăn cần phải
thông qua máy trưởng.
Khi nhiệt độ hơi bị sụt đi dưới giá trị cho phép, nhanh chóng mở các van xả của ống
dẫn hơi chính và của thân tua bin. Giảm vòng quay tua bin bằng cách đóng các van ma nơ
để làm giảm áp suất hơi.
Trường hợp phát hiện thấy nồi hơi bị sôi trào bọt, cần nhanh chóng giảm vòng quay
tua bin và mở các van xả nước của ống dẫn hơi, của thân tua bin và của bộ phận phân
phối.
Luôn theo dõi hơi trong các tầng trung gian, các buồng trích hơi, hơi bao và hút trong
hệ thống làm kín. áp suất trong bộ góp cân bằng của hệ thống này thường duy trì từ 0,1 ÷
0,3 kG/cm2 và độ chân không trong buồng hút là 25 ÷ 50 mmHg. Khi điều chỉnh tự động
giá trị áp suất hơi trong hệ thống phải duy trì trong giới hạn cho phép.
Kiểm tra trạng thái phần chảy của tua bin và sự đóng cặn muối ở trên nó bằng cách
kiểm tra áp suất và độ chênh áp suất một cách có hệ thống ở các chế độ công tác khác
nhau. Đối với mỗi tua bin phải xác định được giá trị áp suất và độ chênh áp suất ở các
43
tầng kiểm tra, trường hợp nếu áp suất ở một tầng bị tăng lên sẽ tương ứng với phụ tải
công tác trên nó bị giảm đi.
Khi khai thác bình ngưng, để duy trì độ chân không định mức người ta phải thiết lập
sự công tác của bơm tuần hoàn phù hợp với nhiệt độ nước mạn tàu và phụ tải hơi của bình
ngưng.
Khi độ chân không trong bình ngưng giảm đi thì tiến hành kiểm tra hệ thống làm kín
tua bin. Nếu các bộ làm kín hoạt động bình thường mà độ chân không vẫn giảm thì phải
nhanh chóng khởi động bơm phun tia dự phòng rồi tìm nguyên nhân, khắc phục. Lý lịch
máy của nhà chế tạo đã đưa ra độ chân không mà tổ hợp tua bin phải duy trì.
Khi trực ca phải kiểm tra hàm lượng ô xi trong nước ngưng, yêu cầu trong giới hạn
(0,05 ÷ 0,1 mg/1 lít nước ngưng). Nếu hàm lượng ô xy tăng chứng tỏ không khí bị hút vào
hệ thống.
Ít nhất mỗi ca phải kiểm tra một lầm hàm lượng muối của nước ngưng, yêu cầu không
vượt quá giá trị 5 mg/1lít nước ngưng. Nguyên nhân lẫn muối trong nước ngưng có thể do
khuyết tật của ống như rạn nứt, sói mòn ở các vị trí lắp ghép, rò nước mặn đưa vào hệ
thống khi thiết bị chưng cất nước công tác kém...
Hình 3.1. Sơ đồ điều khiển cấp hơi vào tua bin
44
Khi tàu lắc ngang, lúc bão tố, nên sử dụng van thông biển đáy để hút hơi biển, tránh
sự cấp nước gián đoạn. Khi chạy trong buồng cạn, trong sông vào và ra cảng nên sử dụng
van thông mạn tàu, tránh tắc kẹt bùn ở lưới lọc, bầu ngưng. Khi chạy trong băng giá nên
hút nước mạn từ đáy tàu còn van mạn cho thổi hơi nóng để dự trữ nếu van đáy bị kẹt bởi
các mấu băng.
Chú ý theo dõi sự hoạt động của các thiết bị trao đổi nhiệt, bộ sấy, bộ khử khí, thiết bị
chưng cất nước ngọt... Việc trích hơi của tua bin chỉ tiến hành khi tổ hợp công tác ổn
định.
Các bộ điều chỉnh áp suất định mức trong các đường ống chính phải đảm bảo áp suất,
nhiệt độ và nước trong bộ khử khí. Các phin lọc cần làm sạch theo chu kỳ.
Khi vận hành cần chú ý lắng nghe tiếng ồn công tác của tua bin nhờ gậy nghe chuyên
dùng tại các vị trí thân, truyền động bánh răng, máy phát. Nhớ rằng tất cả các âm thanh
không bình thường hoặc rung động quá mạnh đều thể hiện sự công tác không bình thường
của tua bin và tổ hợp.
Một trong những yêu cầu cơ bản được đặt ra đối với tua bin là công tác êm và có mức
rung động nhỏ, khi mức rung động bị tăng lên, một phần năng lượng vô ích phải chi phí
cho việc rung động cơ và con tàu làm giảm hiệu suất tổ họp, mặt khác, một số chi tiết sẽ
bị mài mòn nhanh, trong các khớp liên kết có thể tạo vết nứt, ổ đỡ bị tạo rỗ và tróc babít.
áp suất dầu bôi trơn phải nằm trong giá trị yêu cầu, dầu phải luôn đầy ở két cột áp,
nếu mức dầu thấp đi phải khởi động bơi dầu dự trữ. Cần xả khí theo chu kỳ nhiệt độ đầu
phân cấp vào ổ đỡ hệ thống dầu nhờn tới các ổ đỡ, duy trì trong giới hạn 35 ÷ 400C bằng
cách điều chỉnh lượng nước tới sinh hàn dầu. Độ chênh nhiệt độ mát vào và ra sinh hàn từ
6 ÷ 100C.
Mỗi giờ trực ca đều phải kiểm tra nước làm mát để phát hiện dấu vết dầu nhờn có hay
không. Các ống dẫn dầu phải kín khít, không cho phép rò rỉ dầu.
Mỗi ca đều phải bôi trơn dầu riêng cho các khớp cầu của các bộ phận điều chỉnh, của
tốc kế....
Cứ nửa giờ lại kiểm tra nhiệt độ của các cụm ổ đỡ, nhiệt độ ổ đỡ không quá 70 0C. Khi
nhiệt độ ổ đỡ ở chế độ xác lập, tăng so với bình thường từ 3 ÷ 50C đều phải nhanh chóng
tìm nguyên nhân. Nếu xử lý mà nhiệt độ ổ đỡ vẫn không giảm thì phải theo cách xử lý
của máy trưởng và giảm vòng quay tua bin cho đến khi nhiệt độ ổ đỡ giảm đi. Khi tàu
dừng, cần kiểm tra và khắc phục hư hỏng ngay. Cần dừng nhanh chóng tua bin khi phát
hiện ổ đỡ nóng quá, cấm không tưới nước mát lên các bề mặt ổ đỡ khi này.
45
3.3. Duy trì cho tổ hợp tua bin ở trạng thái sẵn sàng làm việc
Duy trì cho tổ hợp tua bin ở trạng thái sẵn sàng làm việc bảo đảm trạng thái nhiệt của
tua bin sao cho nó luôn có thể khởi động được trong thời gian ngắn nhất.
Phân ra trạng thái sẵn sàng của tổ hợp như: sẵn sàng trong mọi lúc, sẵn sàng nửa giờ,
sẵn sàng một giờ, hai giờ v.v...
3.3.1. Công việc duy trì cho tổ hợp tua bin ở trạng thái sẵn sàng trong mọi lúc
a- Sau khi đóng van ma nơ, người ta mở các van ống phun sao cho rô to quay được.
b- Mở tất cả các van xả nước đọng ở thân tua bin, đường ống dẫn chính, ở các hộp
van.
c- Giảm rồi sau đó ngừng cấp nước mát tới sinh hàn dầu nhờn không cho giảm nhiệt
độ dầu nhờn ở lối ra sinh hàn dưới 35 ÷ 400C.
d- Đồng thời phối hợp cứ 5 ÷ 10 phút lại quay rô to ở cả hành trình tiến và lùi 1 ÷ 2
phút với số vòng quay chân vịt từ 10 ÷ 20 v/ph, chú ý lắng nghe tiếng động của tua bin và
truyền động bánh răng.
d- Để làm tốt hơn nữa việc sấy tua bin, giảm độ chân không trong bầu ngưng đến giá
trị theo nhà chế tạo yêu cầu, bằng cách thay đổi chế độ công tác của các bơm phun tia.
e- Nếu quá 15 phút mà chưa quay rô to thì đóng hơi ở van ma nơ lại và quay rô to
bằng máy via, quan sát dòng điện của động cơ điện lai máy via.
f- áp suất dầu nhờn khi quay rô to tua bin phải duy trì như khi tua bin công tác bình
thường.
3.3.1.1 Công việc duy trì cho tổ hợp tua bin ở trạng thái sẵn sàng sau nửa giờ
Đối với sẵn sàng nửa giờ vẫn tuân thủ theo các chỉ dẫn của mục sẵn sàng mọi lúc trừ
mục "d" và "e" ngoài ra còn phải giảm nước làm mát tời bầu ngưng, đóng van dóng
nhanh, cứ 1 ÷ 1,5 giờ lại cho via trục và sấy nóng tua bin.
3.3.1.2 Công việc duy trì cho tổ hợp tua bin ở trạng thái sẵn sàng lớn hơn 1 giờ
Đối với sẵn sàng 1 giờ và sẵn sàng lớn hơn người tiến hành theo qui tắc như chuẩn bị
cho tua bin vào hoạt động.
Khi dừng tua bin, thân và rô to nguội không đồng đều, bản thân các thớ kim loại phía
dưới của rô to cũng nguội nhanh hơn các thớ phía trên, có khả năng trục rô to sẽ uốn vồng
lên trên. Thời kỳ đầu sau khi cắt hơi vào tua bin mức độ uốn rất mạnh. Việc khởi động tua
bin ở trạng thái uốn nhiệt rô to lớn như vậy là không cho phép. Lúc ấy có thể phá hỏng
tua bin. Do uốn nhiệt sẽ gây nên mất cân bằng động rô to, gây rung động, rung động này
46
tăng lên cùng với sự tăng số vòng quay. Khi gặp hiện tượng này phải đưa tua bin về hành
trình nhỏ nhất, để làm đồng đều nhiệt rô to, hình 19.2 là đồ thị về độ cong trục theo thời
gian kể từ khi ngừng quay tua bin.
Khởi động tua bin tin cậy khi mức uốn rô to không quá 0,03 ÷ 0,04 mm. Trong vòng
2 ÷ 4 giờ đầu sau khi dừng sự cong diễn biến khá mạnh. Cấm không khởi động tua bin ở
khu vực này. Trong vòng 1 ÷ 2 giờ đầu thì mức cong không lớn lắm. ở khu vưch 4 ÷ 14
giờ sau mức uốn rô to rất mạnh đạt đến giá trị lớn nhất rồi sau đó dần dần giảm đi và tua
bin lại trở về trạng thái nguội lạnh.
Hình 3.2. Độ cong trục theo thời gian kể từ khi ngừng quay rô to
Độ cong do tác dụng của hiệu số nhiệt độ phía trên và dưới trục có thể tính theo công
thức:
δ=
( t 2 − t 1 ).α .L
8.d
Trong đó:
L- chiều dài rô to (cm);
d- đường kính trục (cm);
t1- t2- hiệu số nhiệt độ phía trên và phía dưới trục;
α = 1,1. 105- hệ số dãn nở dài.
S(mm)
0,25
0,20
0,15
0,10
47
0,05
2
4
6
8
10
12
Hình 3.3. Thời gian khi rô to dừng.
Nếu trong thời gian dừng tua bin mà có hơi xì rò qua các van lọt vào thân tua bin thì
độcong trục khó trở về bình thường được.
Tránh mức cong trục vượt quá trị số bình thường và để tua bin có thể khởi động bất
kỳ lúc nào thì cần cho via rô to, định kỳ via nó đi 180 0 sẽ là cho nhiệt độ các thớ kim loại
đồng đều hơn. Hình 19.5 là đồ thị về độ cong trục trong thời gian nguội và chỉ ra các thời
điểm cần thiết phải via trục đi 1800.
Đồ thị về độ cong trục trong thời gian dừng có dùng thiết bị via trục. Các điểm 1, 2 và
3 là lúc quay trở trục đi 1800.
3.4. Dừng tua bin
3.4.1. Qui tắc chung khi dừng tua bin hơi
Sau khi nhận được lệnh chuẩn bị dừng tua bin ta phải kiểm tra lại hệ thống dầu nhờn
trước lúc ngừng cấp hơi vào tua bin.
Giảm dần công suất và vòng quay tua bin theo yêu cầu của nhà chế tạo trong trường
hợp dừng bình thường.
Để ngăn không khí lọt vào hệ thống, cần từ từ giảm độ chân không ở bầu ngưng theo
chỉ số vòng quay bằng cách giảm bớt hơi vào cấp thứ nhất của bơm phun tia rồi sau đó
giảm bớt hơi vào cấp thứ hai. Thường việc bắt đầu giảm độ chân không ở thời điểm sau
khi số vòng quay tua bin giảm xuống đến 1/2 vòng quay định mức.
Sau khi rô to ngừng quay, đóng thiết bị via trục, kiểm tra và ghi lại sự dãn nở nhiệt
của thân, vị trí theo chiều trục của rô to và hộp giảm tốc. Đóng các van chặn trên đường
ống hơi chính, mở các van xả nước đọng trên đường ống này giảm tới 2 ÷ 3 kG/cm2. Để
tránh rô to có thể bị quay, phải thận trọng mở van ma nơ để làm khô lần cuối cùng đường
ống hơi chính, qua chừng 5 phút đóng các van ống phun, van đóng nhanh và van ma nơ.
Khi này toàn bộ các van xả trên thân tua bin phải mở.
Việc via trục phải theo chỉ dẫn của nhà chế tạo, tua bin vẫn được bôi trơn bằng dầu do
động cơ lai bơm dầu dự trữ làm việc. Dầu bôi trơn lúc này tiếp tục bôi trơn, lấy nhiệt từ
48