Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.46 MB, 218 trang )
c2. Đồng bằng nền cổ bị nhấn chìm.
c3. Trũng tích tụ kéo dài trên sườn lục địa.
III. Trũng sâu biển rìa
D1. Các khối và nút ngấm trên trũng sâu.
D2. Trũng sâu tích tụ của đới tách dãn.
IV. Đảo và quần đảo
E. Cao nguyên san hô.
Các ký hiệu khác
1. Đứt gãy kiến tạo.
2. Ranh giới kiến trúc hình thái bậc I.
3. Ranh giới kiến trúc hình thái bậc II.
4. Ranh giới kiến trúc hình thái bậc II.
Lịch sử phát triển kiến tạo Kainozoi
Lịch sử phát triển kiến tạo Kainozoi đặc trưng bởi các chế độ địa động
lực khác nhau trên phạm vi các kiến trúc lục địa và Biển Đông mà khâu
chuyển tiếp (trung gian) là thềm lục địa Việt Nam. Căn cứ vào các sự kiện địa
động lực quant và các phức hệ vật chất kiến trúc được hình thành trong
Kainozoi, có thể phân chia giai đoạn này thành ba thời kỳ : Eoxen-Oligoxen,
Mioxen và Plioxen - Đệ tứ.
Thời kỳ đầu (Eoxen-Oligioxen) đặc trưng bởi sự hình thành các kiến
trúc tách dãn kiểu nội lục và rìa lục địa, khởi đầu cho việc thành tạo các bồn
trũng Kainozoi thềm lục địa Việt Nam và các đồng bằng ven biển trên phông
nâng lên chung của các kiến trúc lục địa đã bắt đầu từ cuối Mesozoi. Sự biến
đổi cơ bản trong bình đồ kiến trúc vùng nghiên cứu xảy ra vào khoảng cuối
Oligoxen - đầu Mioxen, tức là vào lúc kết thúc thời kỳ đầu.
Thời kỳ Mioxen diễn ra trong bối cảnh chuyển động phân dị ngày
càng mạnh mẽ của các khối tảng vỏ lục địa, tiếp tục qúa trình thành tạo các
trũng cận đứt gãy, tăng cường sụtt hạ ở các bồn trũng Cửu Long, Nam Côn
Sơn và vịnh Thái Lan, mở rộng rift Sông Hồng. Vào đầu Mioxen muộn, toàn
bộ khu vực bắt đầu thời kỳ biển tiến. Các pha biển tiến xen kẽ với các pha
biển lùi ngắn kéo dài đến cuối Mioxen. Kết thực thời kỳ Mioxen được đánh
dấu bằng các chuyển động nâng khối tảng và sự san bằng chung, thể hiện
60
trong việc hình thành một bề mặt bào mòn đặc trưng trên đó các phức hệ
Plioxen - Đệ tứ phủ bất chỉnh hợp góc rõ rệt. Đồng thời trên lục địa kế cận ghi
nhận được một pha phun trào bazan khá mạnh. Thời kỳ Plioxen - Đệ tứ đặc
trưng bởi sự phát triển kiểu thềm lục địa trên khu vực rộng lớn với sự hình
thành các hệ tầng trầm tích biển tương đối đồng nhất và sự chuyển động phân
dị khối tảng với việc mở rộng hoặc mới tạo các trũng giữa núi hoặc trước núi
xen kẽ với các pha phun trào bazan lục địa quy mô khác nhau. Còn trên phạm
vi Biển Đông ghi nhận được khuynh hướng sụt võng chung trong suốt thời kỳ
này và hiện nay đang tiếp diễn.
2.2. Đặc điểm kiến trúc hình thái Biển Đông
Đáy Biển Đông có đặc trưng cấu trúc địa hình và địa mạo rất phức tạp,
vừa mang các yếu tố của đại dưong, vừa mang các yếu tố của lục địa. Trong
phần này sẽ trình bày các đặc điểm địa mạo của đáy biển theo quan điểm kiến
trúc hình thái.
Các kiểu kiến trúc hình thái cơ bản (bậc I) của Biển Đông là : thềm lục
địa, sườn lục địa, trũng sâu biển rìa và các khối quần đảo (hình 8).
2.2.1. Thềm lục địa
Thềm lục địa được xem là phần kéo dài của lục địa bị ngập nước có
hình thái địa hình tương đối bằng phẳng và có chứa nhiều các kiến trúc hình
thái tàn dư nguồn gốc lục địa. Về mặt cấu trúc thì phần lục địa giáp với biển là
những đồng bằng tích tụ thoải, đôi khi là các khối hoặc dãy núi.
Móng kết tinh của thềm lục địa Biển Đông thường bị hạ xuống theo
kiểu bậc thang, phần ngoài gặp các khối nhô tạo thành các bẫy trầm tích rất
lớn (kiều này được thể hiện rõ trên các mặt cắt địa chấn).
Bề mặt thềm lục địa Việt Nam phân bố bất đối xứng, rộng ra ở phía bắc
và phía nam, thu hẹp ở phần miền Trung. Phần rộng lớn của thềm thường
tương ứng với các phần bờ lõm như vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, chính tại
những khu vực này thường phát triển các bồn trũng Kainozoi quy mô khác
nhau.
Ranh giới cấu trúc phần phía trong của thềm lục địa thuộc phạm vi Bắc
Bộ và Nam Bộ hoàn toàn không trùng khớp với đường bờ hiện đại và thực tế
61
ăn sâu vào các đồng bằng lục địa kiểu trũng Cửu Long và trũng Sông Hồng,
đó là một trong những dấu hiệu cho thấy vùng rìa lục địa nằm trong đới động
(đới không bình ổn về mặt kiến tạo). Các hoạt động kiến tạo trong Kainozoi ở
một số nơi trên thềm mang tính chất nghịch đảo, tạo nên các khớp nối giữa
các bồn trũng mà điển hình là khối nhô Bạch Long Vĩ nằm giữa trũng Nam
Lôi Châu và trũng rift Sông Hồng: khối nhô đông bắc Đà Nẵng; Khối nhô Cù
Lao Thu nơi giao hội của bồn trũng Bắc Cù Lao Thu, bồn trũng Cửu Long và
bồn trũng Côn Sơn; khối nhô Côn Sơn nằm kẹp giữa hai bồn trũng lớn Cửu
Long và Nam Côn Sơn.
Trong số các kiến trúc dương trên thềm lục địa còn xuất hiện các núi
lửa, các vòm dung nham chiếm một diện tích đáng kể, đó là các đảo Catwick,
Hòn Tro, cù lao Ré ... Riêng kiểu kiến trúc hình thái núi lửa cù lao Ré chứng
tỏ hiện đại kiến tạo của vùng thềm trong Đệ tứ rất mạnh, qúa trình phun bazan
tạo nên một vòm phủ khá rõ.
Thềm lục địa miền Trung có bề ngang hẹp do hoạt động của hệ thống
đứt gãy phương kinh tuyến khống chế. Quá trình chuyển động thẳng đứng tạo
đứt gãy đến trượt theo khối đã hình thành kiến trúc thềm lục địa ở đây có dạng
bậc thang. Phần tiếp giáp với bờ biển là một bề mặt tích tụ - mài mòn nghiêng
thoải tiếp đến là một bề mặt sườn kiến tạo khá dốc cắm thẳng xuống độ sâu
100 - 120m. Từ độ sâu 120-150m, bề mặt đáy biển tương đối thoải, kéo thành
một dải hẹp và tiếp đó là một bề mặt dốc chuyển tiếp xuống sườn lục địa.
Theo tài liệu về cấu trúc địa chất thì dọc theo hệ thống đứt gãy kinh tuyến tồn
tại một loại các bồn trũng nhỏ nối tiếp nhau và kéo dài tạo thành một kiểu địa
hào (gọi là địa hào Quảng Đà - Quy Nhơn). Địa hào này đã từng tồn tại trong
Kainozoi, nhưng chuyển sang giai đoạn Đệ tứ chúng hoàn toàn bị vùi lấp dưới
trầm tích trẻ, do đó, trên địa hình không phản ánh tính chất kế thừa của kiểu
kiến trúc này.
Thuộc loại kiến trúc hình thái thềm lục địa bao gồm các kiến trúc bậc
cao hơn là các đới nâng và đới sụt võng :
1. Đồng bằng mài mòn - tích tụ của dải nâng ven bờ.
2. Đồng bằng gợn sóng tích tụ - mài mòn trên móng nâng của đới nâng
Côn Sơn.
3. Bề mặt sườn sụt lở kiến tạo.
62
4. Khối và dãy núi khối tảng karst ngầm.
5. Đồi và núi lửa ngầm.
6. Đồi và dãy núi địa lũy.
7. Đồng bằng lòng chảo tích tụ trên móng máng của sụt võng ven bờ.
8. Đồng bằng lòng chảo tích tụ móng sâu (8-10 km) của các bồn trũng
sụt lớn.
9. Đồng bằng lòng chảo tích tụ trong đới rift có móng sâu (10-14km).
10. Đồng bằng gợn sóng tích tụ - mài mòn của thềm biển bị nhận chìm.
2.2.2. Sườn lục địa
Sườn lục địa là một đơn vị kiến trúc hình thái chuyển tiếp giữa vùng
thềm và máng trũng sâu của biển rìa, ranh giới trên được tính từ độ sâu 200300, đôi chỗ đến 500m hoặc hơn, ranh giới dưới tới độ sâu 3.000m nơi kết
thúc của vỏ lục địa. Địa hình của sườn lục địa thường bị phân dị khá mạnh,
các kiến trúc dương thường trùng với các phần móng granit được nâng cao
hoặc là các phun trào núi lửa ngầm. Các cao nguyên trên sườn chủ yếu phân
bố trong phần nâng thuộc một phần tiếp nối của khối nâng Hoàng Sa. Đa số
diện tích của sườn lục địa là đồi và núi thấp tạo thành các mực địa hình kiểu
một mặt san bằng bị biến dạng do tân kiến tạo và có xu thế chung là nghiêng
dần về trung tâm của rốn biển rìa. Thuộc phạm vi sườn lục địa phân định
được các kiến trúc hình thái bậc cao thuộc nhóm địa hình đới chuyển tiếp, cụ
thể là :
1. Địa hình sườn mài mòn trên kiến trúc phức tạp rìa thềm.
2. Các sơn nguyên trên các kiến trúc móng khác nhau.
3. Các cao nguyên ngầm.
4. Đồng bằng đồi trên các kiến trúc khác nhau.
5. Đồng bằng tích tụ - mài mòn của thềm lục địa nhấn chìm.
6. Bề mặt mài mòn trượt lở chuyển tiếp giữa sườn lục địa và trũng nước
sâu biển rìa.
2.23. Trũng nước sâu của biển rìa
Trũng nước sâu của biển rìa bao gồm toàn bộ đồng bằng tích tụ dạng
63
lòng máng nằm trong đới tách dãn. Về diện tích kiểu kiến trúc hình thái này
được mở rộng dần theo thời gian.
Theo một số nhà địa mạo biển, trong đó điển hình là Leonchev, cho
rằng các vực thẳm này được hình thành ở những nơi vỏ đại dương bị phá huỷ
và qúa trình phát triển lớn dần của lục địa. Theo cơ chế này thì khối Hoàng Sa
và Trường Sa đang chìm dần xuống. Các đứt gãy ngang và các rift được sinh
ra cùng thời trong qúa trình tách dần, nhiều khi nó kéo dài lên cả lục địa. Do
đó, rất có thể đứt gãy Sông Hồng chạy ra đới tách dãn và đới tách dãn cũ bị
chết dần và xuất hiện đới tách dãn mới. Theo cơ chế như vậy, vùng trũng nước
sâu sẽ lớn dần về diện tích.
Các kiến trúc hình thái chủ yếu của trũng nước sâu Biển Đông là các
đồng bằng tích tụ bằng phẳng chiếm các diện tích khá lớn của phần trung tâm
và các khối núi sót nhỏ cao ngầm dưới mặt biển. Thông qua các vách kiến tạo,
các kiến trúc - hình thái của trũng nước sâu tiếp giáp với các nhóm cao
nguyên, các kiến trúc - hình thái của trũng nước sâu tiếp giáp với các nhóm
cao nguyên san hô ngầm và các trũng tích tụ của các quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa.
2.2.4. Các khối quần đảo
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là những kiến trúc hình thái lục
địa sót giữa Biển Đông. Cấu trúc chủ yếu là san hô đã cố kết với chiều dày rất
lớn. Cao nguyên san hô này chuyển tiếp xuống các vùng kế cận bằng các vách
khá dốc có khi tới 60-700 và điểm kết thúc của sườn cũng đạt đến độ sâu trên
500 m như ở Hoàng Sa, gần 4.000m đối với Trường Sa. Móng của cao nguyên
chủ yếu là các thành tạo trước Kainozoi và một số nơi là các thành tạo trầm
tích - núi lửa Kainozoi. Căn cứ vào các lớp san hô phủ trên bề mặt cho thấy
cao nguyên đã từng bị chìm ngập dưới đáy biển khá lâu và chỉ mới thoát khỏi
mực nước biển trong thời kỳ Đệ Tứ. Đây là kiểu kiến trúc hình thái rất điểm
hình của vùng nhiệt đới.
2.2.5. Hoạt động động đất Biển Đông
Theo số liệu thống kê hiện có (Nguyễn Kim Lập, 1990), trong khoảng
thời gian lịch sử từ 1877 đến 1988 trên phạm vi Biển Đông đã ghi nhận được
159 trận động đất với cường độ từ 2,4 đến 7,6 độ rích te, các chấn tâm động
đất phân bố tập trung thành các đới nhất định và thường có diện trũng với các
64
đới động kiểu phá huỷ đứt gãy của thạch quyển. Dưới đây điểm qua các đới
chấn tâm này.
Dọc bờ biển của nước ta phân định bởi hai đới chấn tâm chủ yếu (hình
9). Đới thứ nhất trải theo phương kinh tuyến gần trùng với diện của đới đứt
gãy kinh tuyến 1100E, kéo dài trong khoảng từ vĩ độ 100N đến 120N. Các động
đất ghi nhận được có cường độ trong khoảng 4 đến 5,5 độ rích-te và có chấn
tiêu nằm trong vỏ trái đất. Ngoài các động đất mạnh còn ghi nhận được nhiều
động đất yếu với cường độ nhỏ hơn 4 độ rích-te và độ sâu chấn tiêu h 5km.
Theo các đánh giá hiện nay thì đây là một đới phát sinh động đất quan trọng
của thềm lục địa Việt Nam.
Xa hơn về phía tây nam phân định được đới chấn tâm động đất thứ hai
có phương đồng bắc -tây nam trải dọc ven bờ Vũng Tàu - Cà Mau. Cường độ
của các động đất 5 độ rích-te và đều là hoạt động đất nội vỏ.
Nằm gần song song với đới vừa mô tả là đới chấn tâm động đất Côn Sơn
cũng có phương đông bắc - tây nam. ở đây đã ghi nhận được 5 trận động đất
với M 6,1 trong thời gian từ đầu thế kỷ đến nay. Các trận động đất đều có
chấn tiêu nằm ở độ sâu 25km.
Trên phạm vi vịnh Bắc Bộ đã ghi nhận được một số động đất yếu với
M 4. Hầu hết những động đất này phân bố trong phần kéo dài của các đới
chấn tâm Sông Hồng, Sông Đà, Sông Mã và Sông Cả được phân định trong
phạm vi lục địa. Độ sâu chấn tiêu của chúng thường 20km. Riêng ở vùng
ven biển Quảng Ninh đã ghi nhận được một số trận động đất trong thời gian
gần đây.
Các tài liệu hiện có cho phép nhận định được một số đới chấn tâm
động đất thuộc phạm vi vùng biển ngoài thềm lục địa. Để tiện theo dõi để
điểm qua từ bắc xuống nam.
Phía đông nam đảo Hải Nam ghi nhận được nhiều trận động đất, trong
đó có 3 trận động đất mạnh với M = 6-7. Chấn tâm của chúng nằm trùng vào
diện hoạt động của đứt gãy sâu phương đông bắc - tây nam. Độ sâu chấn tiêu
của đới này 30km.
65
Xa hơn về phía nam là đới chấn tâm Hoàng Sa cũng có phương đông
bắc - tây nam. Các động đất ghi nhận được ở đây có M 5,6 và độ sâu chấn
tiêu 30 km.
Trên phạm vi trũng nước sâu Biển Đông đã ghi nhận 2 chấn tâm động
đất yếu.
Một đới chấn tâm đáng chú ý phân bố ở rìa đông bắc quần đảo Trường
Sa (trong khoảng (toạ độ 120 N - 130N và 1140E - 1150E). Chấn tâm động đất ở
đây chủ yếu tập trung trong vỏ trái đất với M 6,1. Đây là vùng hoạt động
động đất tích cực ở Biển Đông (Wissmann, 1988, Nguyễn Kim Lam, 1990).
Phía nam quần đảo Trường Sa nổi lên đới chấn tâm Palawan. ở đây đã
ghi nhận được 4 chấn tâm động đất với M 6 và chiều sâu của chấn tiêu tăng
cao (h = 30 - 40km).
Trong mối quan hệ hoạt động động đất thì biên giới phía đông của Biển
Đông trùng vào hai đới chấn tâm động đất trải theo phương kinh tuyến từ Đài
Loan đến Luzon. Đây là vùng hoạt động động đất mạnh và sâu thuộc đai động
đất Tây Thái Bình Dương.
Trên cơ sơ phân tích tổng hợp các tài liệu về động đất, địa vật lý và địa
chất. Nguyễn Kim Lập (1990) đề nghị phân định một số đới phát sinh động
đất trong phạm vi Biển Đông như sau :
Vùng phát sinh động đất dọc đới Benhicop Manila có phương á kinh tuyến.
ở đây có thể xảy ra động đất với Mmax = 6-7 nằm trùng với diện hoạt động
của các hệ đứt gãy sâu lớn như hệ dứt gãy kinh tuyến 1100, hệ dứt gãy rìa
thềm lục địa Nam Trung Quốc, hệ đứt gãy rìa thềm lục địa bắc và tây bắc
đảo Kalimantan và Palawan, hệ đứt gãy giới hạn rìa phía bắc của khối quần
đảo Trường Sa, và một số đứt gãy ở phần trung tâm lòng chảo nước sâu
Biển Đông.
Các vùng phát sinh động đất với Mmax=5-6. Các vùng này dự kiến phân
định trùng vào đới hoạt động của các đứt gãy lớn ở vùng thềm lục địa vịnh
66
Bắc Bộ có các phương tây bắc-đông nam và đông bắc-tây nam, vùng chảo
nước sâu Biển Đông có thể là các đới phát sinh động đất với Mmax=5-6.
Các tài liệu trình bày ở trên chứng tỏ rằng vùng Biển Đông đang có
những hoạt động động đất tích cực, tập trung vào các kiến trúc địa chất kiểu
các đứt gãy sâu thuộc nhiều chủng loại và định hướng khác nhau, trong đó đặc
biệt đáng chú ý là các đới phương á kinh tuyến và đông bắc - tây nam. Đại đa
số các trận động đất đã ghi nhận được đều thuộc loại động đất vỏ, nghĩa là có
chấn tiêu nằm trong phạm vi vỏ trái đất. Chỉ riêng đới chấn tâm phương kinh
tuyến nằm dọc cung đảo Đài Loan Philippin là đới phát sinh động đất mạnh và
cực mạnh, nảy sinh trong cả ba mực sâu khác nhau từ nội vỏ đến Manti
(Seatar, 1982).
Hình 9 Sơ đồ phân bố chấn tâm động đất khu vực Biển Đông
(Theo Nguyễn Kim Lạp, 1990)
Các chấn tâm động đất có cường độ (M)
1. M = 3.0 - 5.0; 2. M = 5.1 - 6.0;
3. M = 6.1 - 7.0;
4. M = 7.1 - 8.0;
5. M không xác định
67
2.3. Đặc điểm khí hậu Biển Đông
2.3.1. Khái niệm về khí hậu gió mùa nhiệt đới Việt Nam
Việt Nam, một lãnh thổ hẹp ngang chạy dài theo phương kinh tuyến
thuộc khu vực nội chí tuyến bắc Bán cầu nằm ở tận phía đông nam châu á của
một đại lục rộng nhất thế giới, tiếp giáp hai mặt với Thái Bình Dương và ấn
Độ Dương, những điều kiện đó tạo thành khí hậu Việt Nam với nhiều nét đặc
biệt, không giống bất kỳ một nơi nào trên thế giới. Đó là những yếu tố bức xạ
mặt trời nơi chí tuyến, sự tác động mạnh mẽ của hoàn lưu gió mùa đổi hướng
và đối lập về tính chất giữa 2 mùa trong năm, mùa hạ và mùa đông cùng với
các điều kiện địa hình các yếu tố trên đã dẫn đến hệ quả vô cùng đặc sắc của
chế độ khí hậu, thời tiết nước ta.
Nếu chế độ bức xạ mặt trời nội chí tuyến với hai lần thiên đỉnh trong
năm, (bảng 2.1) kết hợp với hoàn lưu tín phong thường xuyên thổi ổn định
một hướng từ chí tuyến về xích đạo là những điều kiện chi phối chủ yếu chế
độ thời tiết các vùng nhiệt đới nói chung, thì ở khu vực Việt Nam những điều
kiện đó không còn là căn bản và thuần nhất nữa, thay vào đó là hoàn lưu gió
mùa với những trung tâm tác động và cơ chế hoàn toàn khác do những đặc thù
riêng về địa lý của khu vực chi phối. Hoàn lưu gió mùa lấn át mạnh mẽ hoàn
lưu tín phong mà tín phong chỉ còn khả năng tác động một phần vào hoàn lưu
gió mùa. Kết quả là hình thành một cơ chế hoàn lưu có tính địa phương và tính
chất chung của hành tinh, xoá nhoà những ranh giới chỉ có ý nghĩa địa đới.
Cần nói rõ thêm một số đặc điểm của gió mùa châu á. Gió mùa như
một hệ quả của sự tương phản về nhiệt chế giữa lục địa và biển cả, thể hiện
mối quan hệ mặt trời - trái đất với một sự chậm pha nào đó, không hoàn toàn
phù hợp với điều kiện châu á. Mặc dù về hình thức cũng vẫn là sự thay đổi
theo gió mùa của gió lục địa và gió đại dương, đối lập về hướng và về những
thuộc tính nhiệt ẩm đặc trưng, song trên qui mô rộng lớn của khu vực châu á
gió mùa trải rộng từ ấn Độ Dương đến Philippin, từ Xibiria - Nhật Bản đến
xích đạo, đã hình thành cả một cơ chế phức tạp kết hợp nhiều trung tâm khí áp
tác động khác nhau, chi phối nhiều hệ thống gió mùa khác nhau.
Bảng 2.1. Ngày mặt trời thiên đỉnh qua các vĩ độ chí tuyến
68
Vĩ độ (B)
Lần thứ nhất
Lần thứ hai
50
3 tháng 4
10 tháng 9
100
17 tháng 4
28 tháng 8
150
2 tháng 5
12 tháng 8
200
21 tháng 5
24 tháng 7
Dựa vào đặc điểm của các Trung tâm khí áp tác động và cơ chế của
chúng, và căn cứ vào những hệ quả thời tiết - khí hậu riêng biệt, có thể phân
biệt 3 hệ thống gió mùa châu á khống chế những khu vực địa lý khác nhau
gây ảnh hưởng đến chế độ khí hậu gió mùa Việt Nam.
Hệ thống đông bắc á bao trùm các vùng Viễn đông, Nga, Nhật Bản,
Triều Tiên, có gió mùa mùa đông lạnh, khô, mang tính lục địa thuần tuý do
khối không khí cực đới từ rìa phía đông cao áp Xiberi thổi theo hướng tây bắc
về phía biển Nhật Bản tạo ra mùa đông giá rét, không mưa. Gió mùa mùa hạ
có hướng đối lập (đông nam), bản chất là không khí nhiệt đới từ rìa phía tây
của cao áp Thái Bình Dương tương đối nóng và ẩm. Gió mùa mùa hạ đem lại
mưa không nhiều cho những vùng duyên hải. Đây là hệ thống gió mùa khá ổn
định về nhiệt độ diễn biến và về tính chất.
Hệ thống Nam - á, khống chế khu vực ấn Độ , Malaysia, Mianma,
Thái Lan. Gió mùa mùa đông chi phối bởi trung tâm cao áp Turkistan kết hợp
với khí lưu tây ôn đới hạ thấp. Không khí này mang tính chất lục địa ôn đới,
nhiệt độ và độ ẩm khá thấp, nhưng không thấp bằng khối khí cực đới Xiberi.
Gió mùa mùa hạ là tín phong nam bán cầu vượt xích đạo lên khá nóng và ẩm.
Nét đối lập giữa 2 mùa là độ ẩm.
Hệ thống Đông Nam á ảnh hưởng đến khu vực Philippin, Malaysia và
vùng nội chí tuyến tây Thái Bình Dương. Mùa đông gió có nguồn gốc từ cao
áp cận chí tuyến Thái Bình Dương, chính là tín phong bắc bán cầu từ rìa phía
nam cao áp thổi về xích đạo, bản chất là khối không khí biển nhiệt đới không
lạnh và khá ổn định. Gió mùa mùa hạ lại ngược lại, có nguồn gốc từ nam Thái
Bình Dương là khối khí ấm và mát của biển và chỉ đối lập với gió mùa mùa
đông về hướng. Dưới ảnh hưởng của hội tụ nhiệt đới và bão gió mùa mùa hạ
kém ổn định và mang lại nhiều mưa trong khu vực nó khống chế.
69
Rõ ràng ba hệ thống gió mùa với ba cơ chế hoạt động riêng biệt đã kết
hợp tạo thành hoàn lưu độc đáo của gió mùa châu á. Trong khi đó lãnh thổ
Việt Nam không hoàn toàn nằm trong phạm vi khống chế của một hệ thống
nào trong ba hệ thống gió mùa nói trên. Do vị trí có tính chuyển tiếp về mặt
địa lý đã khiến cho khí hậu nước ta khi thì chịu ảnh hưởng của hệ thống gió
này, khi thì chịu ảnh hưởng của hệ thống gió kia và đã tạo nên chế độ gió mùa
ở đây rất phức tạp. Gió mùa mùa đông có thể bị chi phối bởi trung tâm cao áp
Xiberi, cũng có thể là hệ quả phát triển của khí lưu tây ôn đới hay tín phong
Thái Bình Dương. Cũng như vậy, gió mùa mùa hạ nước ta vừa chịu ảnh hưởng
của khối khí bắc ấn Độ Dương, vừa là chịu ảnh hưởng của luồng không khí từ
nam Thái Bình Dương lên va cũng có thể cả khối khí tín phong bắc bán cầu
xâm nhập vào kết quả là khí hậu Việt Nam đã không còn tính thuần tuý nhiệt
đới theo qui luật địa đới vùng nội chí tuyến.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn khí hậu của vùng nội chí tuyến (khí hậu
nhiệt đới) khí hậu Việt Nam có nền nhiệt độ thấp hơn và lượng mưa ẩm cao
hơn, sự phân hoá giữa hai mùa trong năm về chế độ mưa - ẩm ở phía nam đất
nước (Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc). Chúng ta cần phải nhận thức đúng
bản chất phức tạp của những điều kiện hình thành khí hậu hướng này, vừa thể
hiện tính địa đới theo vĩ tuyến do những nhân tố thiên văn chi phối vừa mang
tính địa đới theo kinh tuyến liên quan với những yếu tố hành tinh, mới thấy rõ
ý nghĩa đặc sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa ở khu vực nước ta, một dạng khí
hậu có thể xem như một biến tướng của khí hậu nhiệt đới, trong khi vẫn duy
trì nền nhiệt độ cao nói chung của vùng vĩ độ thấp, lại chịu tác động phân hoá
rõ rệt theo mùa do ảnh hưởng gió mùa qui mô lớn : đặc điểm này có ý nghĩa
thực tiễn quan trọng, vì khí hậu là điều kiện thường xuyên của sự tồn tại và
phát triển các qúa trình tự nhiên trong sinh giới và cả trong thế giới vô cơ, chỉ
trong những điều kiện tương đối đồng nhất về mặt khí hậu mới có thể thuận
lợi vận dụng những kinh nghiệm sản xuất từ vùng này qua vùng khác, và chỉ
trên cơ sở về bản chất khí hậu mới có thể thấy rõ những vấn đề đặt ra cần phải
nghiên cứu giải quyết và dự đoán, dự báo những biến động của thời tiết, khí
hậu.
2.3.2. Miền khí hậu Biển Đông
70