1. Trang chủ >
  2. Khoa Học Tự Nhiên >
  3. Môi trường >

Khí hậu phía bắc Biển Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.46 MB, 218 trang )


Cho nên chế độ nhiệt ở đây rất dịu, các cực trị của nhiệt độ đạt mức

thấp hơn đất liền nhiều. ở Hoàng Sa, nhiệt độ tối thấp trung bình tháng lạnh

nhất cũng đạt tới 220C, cao hơn Bình-Trị-Thiên tới 50C, và tương đương với

đồng bằng Nam Bộ. Trái lại, những nhiệt độ tối cao trong mùa hạ trung bình

chỉ lên tới 310C, trong khi các giá trị đó trong đất liền vào khoảng 34-350C.

Tuy không có những số liệu về các cực trị tuyệt đối của nhiệt độ song

có thể tin rằng giới hạn tối thấp của nhiệt độ ở đây không xuống dưới 150-C và

giới hạn tối cao không vượt quá 350C.

3. Trong chế độ mưa, có sự phân chia mùa phù hợp với chế độ gió mùa.

Mùa mưa trùng với mùa gió mùa mùa hạ và mùa ít mưa trùng với mùa gió

mùa mùa đông. Song trong mùa ít mưa, lượng mưa không quá ít, trung bình

mỗi tháng cũng đạt 20-40mm với 5-10 ngày mưa. Còn trong mùa mưa, mưa

tập trung nhiều vào nửa cuối mùa hạ, từ tháng VIII đến tháng XI, trong đó

tháng X có lượng mưa trội nhất.

ở vùng Bắc Biển Đông lượng mưa thấp, lượng mưa trung bình năm chỉ

vào khoảng 1200mm, là giá trị thuộc loại thấp nhất trên đất liền, vì ở đây

không có những địa hình gây tác dụng chắn gió, tăng cường mưa. Tình hình

này còn gặp thấy ở một số đảo gần bờ biển nước ta. Chẳng hạn ở Côtô, trung

bình hằng năm chỉ đạt 1655mm, ít hơn Móng Cái (1769mm/năm) tới hơn

100mm.

4. Độ ẩm quanh năm cao, tuy có hơi giảm một chút trong mùa đông

thịnh hành những khối không khí có nguồn gốc lục địa.

5. Trên biển đặc biệt lộng gió. Tốc độ gió trung bình lên tới 6-7m/s, lớn

hơn các đảo gần bờ tới 1-2m/s và lớn hơn các vùng ven biển tới 2-3 m/s. Khả

năng lặng gió hầu như không có

6. Đặc điểm cuối cùng rất đáng chú ý là : vùng Bắc Biển Đông là nơi

các cơn bão từ Thái Bình Dương hoặc từ chính phần phía Đông Biển Đông

thường đi qua trong mùa hạ, nhất là từ giữa mùa hạ trở đi, với cường độ rất

mạnh trên đường di chuyển về phía Tây. Chắc chắn rằng, đang trong giai đoạn

"sung sức" của cơn bão, tốc độ gió bão ở vùng này có thể đạt và vượt quá

50m/s, gây tàn phá ghê gớm.

Dưới đây, nêu tóm tắt đặc trưng khí hậu chính (căn cứ vào số liệu của

trạm Hoàng Sa).

73



Nhiệt độ

Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 270C (tương đương với đồng bằng

Nam Bộ). Hằng năm chỉ có 3 tháng nhiệt độ trung bình dưới 250C (là tháng

XII, I, II). Tháng 1 là tháng cực tiểu trong biến trình năm, có nhiệt độ trung

bình vào khoảng 23-240C và nhiệt độ tối thấp trung bình 220C. Trong gần

suốt mùa gió mùa mùa hạ, từ thángV đến tháng IX, nhiệt độ trung bình ở mức

28-290C và nhiệt độ tối thấp trung bình ở 30-310C. Tháng cực đại trong biến

trình năm là thángV. Biên độ ngày của nhiệt độ vào khoảng 3,50C và không có

sự biên thiên đáng kể trong qúa trình năm.

Mưa

Lượng mưa hằng năm vào khoảng 1200mm (tương đương với khu vực

cực Nam Trung Bộ), với số ngày mưa 110 ngày.

- Trong mùa gió mùa mùa hạ, lượng mưa tháng bắt đầu vượt quá

100mm từ tháng VI, nhưng tiếp đó, tháng VII lượng mưa lại giảm xuống dưới

100mm và chỉ từ tháng VIII mới thực sự bước vào thời kỳ nhiều mưa kéo dài

đến tháng XI.Lượng mưa tăng đều từ xấp xỉ 150mm trong tháng VIII tới

200mm trong tháng IX và đạt tới cực đại 230 mm vào thángX. Qua tháng XI,

lượng mưa lại giảm xuống dưới 150mm. Số ngày mưa trong 3-4 tháng giữa

mùa mưa vào khoảng trên dưới 15 ngày, các tháng khác chừng 10 ngày. Trong

mùa mưa ít gặp trường hợp mưa lớn. Lượng mưa lớn nhất trong 24 giờ cũng

chỉ trên dưới 200mm.

- Thời kỳ ít mưa (lượng mưa trung bình tháng dưới 100mm) kéo dài từ

tháng XII đến tháng V. Ba tháng ít mưa nhất là các tháng I, II, III với lượng

mưa trung bình trên dưới 20mm và 5-7 ngày mưa mỗi tháng. Các tháng còn

lại có lượng mưa trung bình 50-70 mm. Đồng thời với mưa là chế độ ẩm, độ

ẩm trung bình, năm ở đây là 84-85%, trong các tháng giữa mùa đông (XII-I)

độ ẩm giảm xuống 82%.

Gió trên miền phía bắc Biển Đông khá ổn định về hướng. Mùa đông

thịnh hành gió đông bắc với tần xuất > 50%, hướng bắc chiếm 25%. Mùa hè,

hướng gió nam chiếm ưu thế (>50%), sau đó là tây nam gần 30%. Trong thời

kỳ chuyển tiếp từ mùa đông sang mùa hè (tháng IV) hướng gió rất phân tán,

tần xuất phân bố đều trong các hướng NE, E, SE và S, còn thời kỳ chuyển tiếp

hè sang đông hướng ưu thế là NE (50%) và hướng N (>15%).



74



Bảng 2.1 : Các giá trị trung bình tháng và năm của nhiệt độ (0 C), lượng mưa (mm), số ngày

mưa và độ ẩm tương đối (%) ở đảo Hoàng Sa

( = 16033 N, = 111037E, độ cao 6m).

Các đặc

trưng

I



Các tháng trong năm

II



III



IV



V



VI



VII VIII IX



XI



XI



XII



Nhiệt độ



23,5



24,1



26,2



27,7



20,2



29,1



28,9



28,7



28,7



27,1



25.8



24.4



26.9



Nhiệt độ

tối cao



27,5



26,3



28,5



29,8



31,1



30,9



30,6



30,6



30,1



29,0



27,7



26,3



28,9



Nhiệt độ

tối thấp



22,1



22,7



24,6



26,1



27,4



27,7



27,6



26,9



26,3



25,4



24,3



29,0



25,3



Lượng mưa



21



17



21



60



73



128



93



141



197



228



143



47



1169



Số

ngày

mưa



8



5



3



5



8



8



7



9



15



17



14



13



112



Độ

ẩm

tương đối



82



84



84



84



84



85



84



84



84



84



84



82



84



cả

năm



Tốc độ gió biến động lớn và mạnh. Tốc độ gió trung bình năm là 6,5

m/s, tốc độ gió trung bình mùa đông mạnh hơn 6,5-7,0 m/s, tốc độ gió trung

bình mùa hè chỉ đạt 5,5 m/s.

Bảng 2.2 : Số cơn bão trung bình tháng trong 10 năm qua khu vực Hoàng Sa

(Theo số liệu thống kê trong thời kỳ 1911 - 1965).



Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Cả

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

năm

1



3



4



5



7



8



4



1



33



Trường hợp lặng gió và gió yếu < 1,5 m/s rất ít gặp (< 5%) trong các

mùa gió và nhỏ hơn 20% trong mùa chuyển tiếp.

Bão trên miền bắc Biển Đông xuất hiện tương đối nhiều trong thời kỳ

mùa hè. Theo số liệu thống kê trong 55 năm (1911-1965) trung bình mười

năm có tới 33-34 cơn bão đi qua khu vực Hoàng Sa và đều có khả năng xẩy ra

suốt từ tháng V đến tháng XII (xem bảng 2.2), song trong tháng IX và tháng X

xuất hiện nhiều bão nhất. Bão gây gió lớn từ 30m/s đến 40m/s, nhưng lượng

mưa trong bão thì không lớn ( 200-250 mm/ngày).



75



Khí hậu vùng phía nam Biển Đông

Khí hậu vùng phía nam Biển Đông đặc trưng cho khí hậu gió mùa mang

tính chất xích đạo với những đặc trưng cơ bản sau đây :

Nhiệt độ luôn luôn ổn định cao và biến thiên theo mùa không lớn. Nhiệt

độ trung bình năm khoảng 26,5 - 27,0 0C. Trong biến trình năm có hai cực đại,

cực đại chính xảy ra vào tháng IV với giá trị 27,50C, cực đại thứ hai xẩy ra vào

tháng IX với giá trị 27,00C.

Bảng 2.3 : Các giá trị trung bình của nhiệt độ, lượng mưa và số ngày mưa ở Puecto

Porinxetxa (100N; = 1190E; độ cao 14m).

Các đặc

trưng

I



Các tháng trong năm

II



III



IV



V



VI



VII VIII



IX



XI



XI



XII cả

năm



Nhiệt độ

trung bình

(0C)



26,0



25.4



26,7



27,6



27,5



27,0



28,9



26,9



27,0



28,7



26,4



26,0



26,7



Lượng mưa

trung bình

(mm)



58



38



44



60



169



197



218



180



213



268



283



264



1992



Số

ngày

mưa trung

bình



7



4



6



7



16



18



19



17



20



20



17



12



172



Giá trị cực tiểu 25,50C xẩy ra vào tháng II, chậm pha hơn trên đất liền

một tháng do tính chất nhiệt độ đại dương. Như vậy biên độ năm của nhiệt độ

chỉ vào khoảng 20C, đó là điều kiện khí hậu xích đạo.

Lượng mưa tương đối cao và có sự phân chia mùa rõ rệt. Lượng mưa trung

bình năm trên đảo Trường Sa là 2.000 mm và số ngày mưa lớn hơn 150 ngày

trong năm. Hằng năm, mùa mưa bắt đầu cùng với gió mùa mùa hạ (vào tháng

V) nhưng kết thúc muộn nửa đầu mùa đông (vào tháng XII). Trong mùa mưa

kéo dài 8 tháng đó, có thê phân biệt d hai thời kỳ nhiều mưa vào đầu và cuối

mùa, xen giữa là một thời kỳ ngắn tương đối ít mưa vào khoảng tháng VIII.

Thời kỳ nhiều mưa nhất là 3 tháng X, XI, XII có lượng mưa gần như nhau,

250-300mm/tháng mà thường tháng XI có lượng mưa trội hơn. Tháng VII và

tháng IX có lượng mưa vượt quá 200mm. Trong suốt 5-6 tháng giữa mùa mưa,

số ngày mưa ở mức xấp xỉ 20 ngày mỗi tháng. Trong thời kỳ mùa khô lượng



76



mưa không quá ít, trung bình mỗi tháng cũng đạt khoảng 50mm với 5-7 ngày

mưa.

Bão

Phần phía Nam Biển Đông quan trắc thấy ít bão hơn nhiều so với phần

phía bắc. Theo số liệt thống kê, trung bình trong 10 năm chỉ có 13 cơn bão đi

ngang qua vùng biển này. Thời gian bão đi qua đây muộn hơn so với phần

phía Bắc.Tháng nhiều bão nhất là tháng IX (5 cơn) rồi đến tháng X và XII

(mỗi tháng 3 cơn). Tháng IX và tháng VII cũng có khả năng gặp bão nhưng

rất ít

Bảng 2.4 : Số cơn bão trong 10 năm đi qua vùng quần đảo Trường Sa



Tháng IX



Tháng X



Tháng XI



Tháng XII



Tháng I



Năm



1



3



5



3



1



13



Cũng có thể nhận xét bão hoạt động ở các vùng phía Nam Biển Đông

thường có cường độ yếu hơn so với các bão hoạt động ở vùng phía Bắc.

2.3.3. Một số kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây về chế độ khí

hậu miền Biển Đông

Nhằm tăng thêm những hiểu biết về tính chất phức tạo của chế độ khí

hậu Biển Đông trong lúc chưa có các công trình nghiên cứu hoàn chỉnh ở phần

này, chúng tôi giới thiệu một số kết quả nghiên cứu gần đây nhất của các nhà

hải dương học Việt Nam.

Về chế độ gió mùa : ở vùng phía bắc Biển Đông gió thường mạnh hơn

và tần suất các gió mạnh từ cấp 7 trở lên (trên 14m/s) chiếm khoảng 5 - 10%.

Điều đáng chú ý là hướng thịnh hành của hai hệ gió mùa trùng với trục lớn

của biển đông bắc - tây nam, hai bản đồ hoa gió trên Biển Đông đặc trưng cho

hai mùa gió đông bắc và tây nam đã khẳng định (hình 9a, 9b).

ở Bắc Bộ trong 40 năm qua, đã quan sát thấy trung bình 30 đợt gió mùa

đông bắc mạnh mỗi năm (lớn nhất 39 đợt, ít nhất 24 đợt), nhưng càng đi về

phía nam, số đợt này càng giảm, Vinh trở vào chỉ còn trung bình khoảng 15

đợt mỗi năm.



77



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

×