Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.46 MB, 218 trang )
2 vùng mỏ và mỏ cỡ lớn (trữ lượng 500 ngàn tấn titan) là vùng mỏ Cát
Khánh (bao gồm Cát Khánh, Mỹ Tho), mỏ Hàm Tân.
7 vùng mỏ và mỏ cỡ trung bình (trữ lượng = 50 -:- 500 ngàn tấn titan)
là: vùng mỏ Thuận An (bao gồm Quảng Ngạn, Kẻ Song, Vĩnh Nữ), mỏ
Kỳ Anh, Mũi Né, Hòn Gốm, Cẩm Hoà, Kỳ Ninh và mỏ Chùng Găng.
Hình 26. Sơ đồ tiềm năng dầu khí lưu vực Biển Đông
(Theo tài liệu của ESCAPE, 1987)
Các mức triển vọng về dầu:
Các mức triển vọng về khí
1- Cao (10-100 tỉ barrels)
4- Cao (10-100 nghìn tỉ feet khối)
2- Khá (1-10 tỉ barrels)
5- Khá (1-10 nghìn tỉ feet khối)
3- Kém (0,1-1,0 tỉ barrels)
6- Kém (0,1-1,0 nghìn tỉ feet khối)
143
7- Chưa rõ tiềm năng
6 mỏ cơ nhỏ (trữ lượng = 25 -:- 50 ngàn tấn titan) là Nam Hàm Tân,
Cẩm Nhượng, Đồng Xuân, Cửa Hội, Quảng Xương, Long Hải. Nhiều
điểm quặng (trữ lượng < 25 ngàn tấn titan) có ý nghĩa công nghiệp địa
phương. Trong đó nên lưu ý đến 3 điểm: Thiện ái, Bình Ngọc, Vĩnh
Thái (có trữ lượng từ 10-22 ngàn tấn titan). Tổng trữ lượng quạng titan zirconi - đất hiếm sa khoáng ven biển Việt Nam đã tính được là (tính
theo khoáng vật).
- Quặng titan :
- Quặng zirconi :
- Quặng đất hiếm :
8.421.126 tấn.
846.451 tấn.
36.873 tấn.
Đây là trữ lượng tính đến 1985. Từ đó đến nay, một số mỏ đã được
khảo sát chi tiết hơn (tìm kiếm tỉ mỉ hoặc thăm dò) như mỏ Hàm Tân, Kẻ
Song ... Kết quả khảo sát chi tiết đều cho số lượng trữ lượng lớn hơn trước.
Vì khi khảo sát chi tiết thường khống chế được chiều dày thân quặng tốt
hơn khi khảo sát sơ bộ, nên trữ lượng titan - zirconi - đất hiếm sa khoáng
ven biển thực tế chắc chắn sẽ lớn hơn số lượng nêu trên khoảng vài triệu
tấn đối với quặng titan, vài trăm ngàn tấn đối với quặng zirconi và vài chục
ngàn tấn đối với quặng đất hiếm. Đa số các thân quặng này đều nằm lộ
thiên, số rất ít nằm chôn vùi trong cát ven biển (một số thân quặng ở Mũi
Né, Hàm Tân ...). Chiều dày trung bình của thân quặng dao động trong
khoảng 1m - 1,8m, số ít 0,6 - 0.8m, đặc biệt có thể đạt tới 6-8 m (ở mỏ Kẻ
Sung, Cát Khánh...). Hầu hết các thân quặng đều nằm trong trầm tích bãi
biển hiện đại và trầm tích biển - gió (dãy đụn cát ven biển). Tuổi của sa
khoáng chủ yếu là Holoxen giữa (Q 3IV ) ít hơn Holoxen giữa - muộn (Q IV23 )
và Holoxen (Q IV23 ).Trong trầm tích Pleistoxen giữa muộn (cát đỏ Phan
Thiết) cũng có chứa các thân quặng có hàm lượng thấp. Hàm lượng của
mỗi loại quặng thay đổi ở từng mỏ riêng biệt. Căn cứ vào hàm lượng của
quặng titan và quặng zirconi, phân chia ra hai nhóm mở
144
Nhóm mỏ sa khoáng titan : bao gồm các mỏ chỉ có hàm lượng
quặng titan đạt giá trị công nghiệp.
Nhóm mỏ sa khoáng titan - zirconi : bao gồm các mỏ có hàm
lượng của cả hai loại quặng titan và zirconi đạt giá trị công
nghiệp. (bảng 4.1). Quặng đất hiếm không đạt hàm lượng công
nghiệp ở bất cứ mỏ nào, nên chưa được coi là quặng đi kèm. Dựa
vào kết quả khảo sát thực địa và phân tích trong phòng nhận hấy
tuy có sự thay đổi về số lượng, chất lượng của các loại quặng
trong từng mỏ cụ thể, nhưng nhìn chung các khoáng vật quặng
titan, zirconi và đất hiếm luôn đi cùng nhau trong sa khoáng ven
biển Việt Nam, tạo nên các mỏ thuộc loại hình sa khoáng tổng
hợp inmenit-rutin-zirconi-monozit ven biển, có tuổi chủ yếu là
Holoxen muộn (Q 3IV ). Đây là loại hình mỏ sa khoáng ven biển rất
phổ biến trên thế giới, như : Australia, Mỹ ấn Độ, Liên Xô cũ ...
chiếm đa số tổng trữ lượng quặng titan-zirconi đang được khai
thác, sử dụng.
145
Hình 27. Các bể trầm tích Đệ Tam
146
147
Hình 28. Sơ đồ phân bố khoáng sản sa khoáng ven biển Việt Nam
148
(Theo Nguyễn Kim Hoàn và nnk, 1991)
Sau đây là một số nét đặc trưng của các loại quặng nêu trên :
Quặng titan: quặng titan sa khoáng ven biển Việt
Nam có thành phần chủ yếu là inmenit, thứ yếu là
Leucoxen, rutin, anataz và brukít Inmenit chiếm đa số
tuyết đối trong tất cả các mỏ. Leucoxen, rutin va anataz
có mặt trong hầu hết các mỏ, nhưng hàm lượng thấp;
Leucoxen có hàm lượng đáng kể 40 kg/m3, rutin có hàm
lượng cao nhất tới 4-5 kg/m3 còn lại chỉ trong khoảng 1-3
kg/m3 ; anataz chỉ tính được bằng kg/m3, hoặc chỉ có ít hạt
trong mẫu. Hàm lượng trung bình quặng titan trong tất
cả các mỏ đều đạt loại giàu đến rất giàu trong khoảng 50100 kg/m3, trừ mỏ Kẻ Sung là loại trung bình.
Kích
thước độ hạt của khoáng vật quặng titan đa số trong
khoàng 0,10-0,30 mm, số ít : 0,.30 - 0,45 mm hoặc 0,05 - 0,10 mm.
Chất lượng quặng titan thuộc loại tốt, chất có hại (Ca203)
thấp ...
Trong những năm gần đây, quặng titan ven biển Việt Nam đã đáp
ứng được yêu cầu công nghệ của nhiều ngành công nghiệp trong nước
như: sản xuất que hàn điện, chế tạo TiO2 nhân tạo, luyện ferotitan ... Bước
đầu đã xuất khẩu, nhưng số lượng còn ít.
Quặng zircont: quặng Zirconi có mặt trong sa
khoáng ven biển ở dạng khoáng vật zircon. Nói chung
zircon có hàm lượng khá cao trong sa khoáng ven biển
Việt Nam. ở bất cứ nơi nào zircon đều có thể khai thác
cùng với quặng titan. Cần lưu ý rằng ở nhiều mỏ, chỉ tính
149
riêng zircon cũng đạt hàm lượng công nghiệp. Hàm lượng
zircon trung bình trong các mỏ là 3 -:- 19,5 kg/m3. Các mỏ
có hàm lượng zircon cao là Kỳ Khang, Kỳ Ninh, Quảng Ngãi,
Hàm Tân ... (12 -:- 26 kg/m3). Kích thước độ hạt của zircon
thường nhỏ hơn khoáng vật titan, ở đa số các mỏ biến đổi
trong khoảng 0,10 - 0,20mm, số ít bằng 0,05 -:- 0,10 mm và 0,20 :- 30mm. Tính quặng zicon ven biển Việt Nam hiện nay đã
được sử dụng trong một số công nghiệp đồ sứ, gạch men
... đạt chất lượng tốt.
Quặng đất hiếm: quặng đất hiếm phóng xạ (Ce,La, Th, Y, U...) được
biểu hiện ở dạng các khoáng vật : monazit, xenotim, zirtholit, uraninit ...
Monazit vào xenotim có độ phổ biến cao, có mặt ở hầu hết các mỏ, nhưng
hàm lượng thấp, thường trong khoảng 1Kg/m3. Zirtholit gặp ở nhiều mỏ,
còn
Bảng 4. 1 : Trữ lượng và chất lượng cát thuỷ tinh ven biển Việt Nam.
Cỡ mỏ
Số thứ
tự
Trữ lượng
(ngàn
tấn)
Chất lượng
Lớn
1
Phan Rí
288.382
Thuỷ tinh dân dụng
2
Hồng Sơn
40.973
Thuỷ tinh dân dụng
3
Bình Châu
40.231
Thuỷ tinh dân dụng
4
Thuỷ Triều
34.301
Loại I khoảng 25%
Tên mỏ
Cam ranh
Loại II khoảng 75%
Thuỷ tinh dân dụng
5
Phan Ri Thanh
28.515
Thuỷ tinh dân dụng
6
Long Nhơn
22.912
Thuỷ tinh dân dụng
7
Chụm Galưng
22.856
Thuỷ tinh dân dụng
150
Trung
bình
8
Dinh Thày
20.708
Thuỷ tinh dân dụng
9
Cấy Táo
20.527
Thuỷ tinh dân dụng
10
Hàm Tân
16.264
Thuỷ tinh dân dụng
11
Long Thịnh
12.924
Thuỷ tinh dân dụng
12
Cam Hải
11.169
Thuỷ tinh dân dụng
13
Nam Ô
6.827
Thuỷ tinh dân dụng
14
Thành Tín
5.780
Thuỷ tinh dân dụng
15
Vân Hải
5.621
Thuỷ tinh dân dụng
16
Tân Thắng
4.138
Thuỷ tinh dân dụng
17
Nam Phan Thiết
Tổng cộng
Thuỷ tinh dân dụng
583.935
Ghi chú :
Loại I : Cát pha lê .
Loại II : Cát quang học
Theo tài liệu của Nguyễn Đình Thiêm, 1977. Lê Đức Cường , 1981. Nguyễn
Viết Thắm và nnk, 1984.
Uraninit mới gặp vài hạt ở Hàm Tân, Văn Lý , cần nghiên
cứu tiếp. Từ những kết quả nghiên cứu bước đầu về đặc
điểm khoáng vật học của inmenit, rutin, zircon trong sa
khoáng ven biển Việt Nam, cộng với các tài liệu nghiên
cứu về đặc điểm địa hoá, địa mạo, macma, các vành phân
tán khoáng vật nặng ... có liên quan, nhận thấy các
khoáng vật nặng tạo thành các mỏ sa khoáng ven biển có
tính đa nguồn gốc. Chúng là sản phẩm bền vững trong
quá trình phong hoá học từ vỏ phong hoá của nhiều loại
đá khác nhau (macma axit, trung tính, bazơ, biến chất,
trầm tích...), từ trong lục địa đưa ra ven biển, sau đó chịu
151
tác động của động lực biển và gió, tái trầm tích, nâng cao
hàm lượng, tập trung tạo nên các mỏ sa khóang titan zirconi-đất hiếm ven biển hiện tại.
Cát thuỷ tinh: cát thuỷ tinh là một trong những sa
khoáng chủ yếu của ven biển Việt Nam. Chúng phân bố rải
rác dọc bờ biển từ bắc đến nam, có mỏ ở ngoài đảo như
Vân Hải (tỉnh Quảng Ninh). Hầu hết các mỏ cỡ lớn tập
trung trong đoạn ven biển Nam Trung Bộ từ Cam Ranh đến
Bình Châu (hình 28).
Đến nay đã có 17 mỏ cát thuỷ tinh ven biển được tìm kiếm, thăm dò.
Tổng trữ lượng là : 583.935 ngàn tấn (Bảng 4.1). Ngoài ra còn một số mỏ như
Chu Lai, Tam Quan, Sa Huỳnh .,..) có triển vọng tốt, nhưng chưa được đánh
giá.
ở đa số các mỏ ven biển, cát thuỷ tinh có chất lượng làm thuỷ tinh dân
dụng. Chỉ riêng ở mỏ Cam Ranh, Vân Hải... cát có chất lượng cao (đủ tiêu
chuẩn cát pha lê, cát dụng cụ quang học ...).
Quặng thiếc: theo tài liệu của Liên đoàn Bản đồ (1978) và Liên đoàn
Địa chất 6 (1983), thiếc sa khoáng ven biển được biểu hiện ở hai vành
phân tán caxiterit Du Long - Ma Ti (Thuận Hải) và Bắc Tuy Hoà (Phú
Yên). Hàm lượng caxiterit ở Du Long, Ma Ti biến đổi từ vài chục đến gần
200 g/m3. ở Bắc Tuy Hòa trong khoảng vài g/m3 đến vài chục g/m3.
Caxiterit trong trầm tích lòng sông suối và thềm bậc I. nhưng không tạo
thành sa khoáng có giá trị công nghiệp cao. Caxiterit ở đây thường đi kèm
với khoáng vật nặng zircon, rutin, leucoxen, zirtholit, vonframit, monazit ....
Gần sa khoáng Du Long - MaTi, đã phát hiện được thiếc gốc có liên quan
với granít Du Long - MaTi (phức hệ ancroet) và các thể pecmatit hạt trung
đến thô. Trong đới đập vỡ gặp các mạch thach anh chứa caxiterit và
vonframit (Nguyễn Văn Mài, 1985). Có lẽ thiếc ở đây thuộc thành hệ
caxiterit-pecmatit và caxiterit - vonframit - thạch anh nhiệt dịch nhiệt độ
cao. Ngoài ra còn gặp caxiterit trong một số mẫu ở sa khoáng titan-zircon
152
ven biển Sầm Sơn, Cà Ná ..., mỗi mẫu có vài hạt caxiterit. Theo tài liệu của
Viện Hải Dương học (Nha Trang) đã gặp caxiterit trong một số mẫu cát ở
trầm tích đáy biển nông vùng Thuận Hải, Phú Yên.... Tóm lại, cho đến nay
với các tài liệu điều tra, tìm kiếm, thăm dò cho phép khẳng định rằng trong
dải cát ven biển Việt Nam chứa nhiều khoáng vật quặng có giá trị công
nghiệp ở dạng sa khoáng. Đặc biệt trong các năm 1992-1994 vừa qua Cục
Địa chất Việt Nam đã tiến hành đề án nghiên cứu sa khoáng tại dải ven bờ
(đến độ sâu 30m nước). Kết quả đã phát hiện nhiều thể sa khoáng có triển
vọng về inmenit, zirconi, rutin, monazit, thiếc, vàng tại ven bờ các tỉnh
Trung Bộ.
Để tiếp tục điều tra nghiên cứu tiềm năng sa khoáng ven biển, cần
lưu ý một số điểm sau đây :
1. Trữ lượng quặng titan-zirconi-đất hiếm nêu ở đây chỉ là con số tính
riêng cho phần cát ven biển đang được lộ ra, chưa kể đến phần cát ven
biển đã bị phủ bởi lớp thổ nhưỡng (ruộng lúa, khoai mẫu ...). Trữ lượng
chắc sẽ được tăng lên khi thăm dò kỹ hơn (vì chiều dài thân quặng sẽ
được khống chế đầy đủ hơn).
2. Cần có đề án điều tra đánh giá khoáng vật nặng ở đáy vùng biển nông
đoạn bờ biển.
4.2. Tài nguyên sinh vật
Phù hợp với tính chất sinh vật biển nhiệt đới, tài nguyên sinh vật biển
Việt Nam rất đa dạng về thành phần với những đăc sản biển nhiệt đới.
Thực vật có các nguồn lợi rong biển, ngập mặn vùng triều cửa sông. Về
động vật, ngoài cá biển còn có các loài đặc sản bao gồm các loài trai, sò,
mực, tôm, hải sâm ..., các loài rùa biển, chim biển. Bên cạnh nguồn lợi hải
sản khai thác, các thuỷ vực nước lợ - mặn ven biển với điều kiện sinh thái
thuận lợi cho việc nuôi trồng hải sản, hàng năm có thể cho hàng chục
nghìn tấn sản phẩm.
4.2.1. Nguồn lợi rong biển
Trong tổng số 639 loài rong biển đã thống kê được hiện nay trong
vùng biển nước ta, có khoảng 90 loài (14%) có giá trị kinh tế, trong đó
ngành rong đỏ có tới 51 loài, tiếp đến là rong nâu 27 loài. Về giá trị sử
153