Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.46 MB, 218 trang )
mưa không quá ít, trung bình mỗi tháng cũng đạt khoảng 50mm với 5-7 ngày
mưa.
Bão
Phần phía Nam Biển Đông quan trắc thấy ít bão hơn nhiều so với phần
phía bắc. Theo số liệt thống kê, trung bình trong 10 năm chỉ có 13 cơn bão đi
ngang qua vùng biển này. Thời gian bão đi qua đây muộn hơn so với phần
phía Bắc.Tháng nhiều bão nhất là tháng IX (5 cơn) rồi đến tháng X và XII
(mỗi tháng 3 cơn). Tháng IX và tháng VII cũng có khả năng gặp bão nhưng
rất ít
Bảng 2.4 : Số cơn bão trong 10 năm đi qua vùng quần đảo Trường Sa
Tháng IX
Tháng X
Tháng XI
Tháng XII
Tháng I
Năm
1
3
5
3
1
13
Cũng có thể nhận xét bão hoạt động ở các vùng phía Nam Biển Đông
thường có cường độ yếu hơn so với các bão hoạt động ở vùng phía Bắc.
2.3.3. Một số kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây về chế độ khí
hậu miền Biển Đông
Nhằm tăng thêm những hiểu biết về tính chất phức tạo của chế độ khí
hậu Biển Đông trong lúc chưa có các công trình nghiên cứu hoàn chỉnh ở phần
này, chúng tôi giới thiệu một số kết quả nghiên cứu gần đây nhất của các nhà
hải dương học Việt Nam.
Về chế độ gió mùa : ở vùng phía bắc Biển Đông gió thường mạnh hơn
và tần suất các gió mạnh từ cấp 7 trở lên (trên 14m/s) chiếm khoảng 5 - 10%.
Điều đáng chú ý là hướng thịnh hành của hai hệ gió mùa trùng với trục lớn
của biển đông bắc - tây nam, hai bản đồ hoa gió trên Biển Đông đặc trưng cho
hai mùa gió đông bắc và tây nam đã khẳng định (hình 9a, 9b).
ở Bắc Bộ trong 40 năm qua, đã quan sát thấy trung bình 30 đợt gió mùa
đông bắc mạnh mỗi năm (lớn nhất 39 đợt, ít nhất 24 đợt), nhưng càng đi về
phía nam, số đợt này càng giảm, Vinh trở vào chỉ còn trung bình khoảng 15
đợt mỗi năm.
77
Hình 9a. Hoa gió tháng 1 trên Biển Đông.
78
Hình 9b Hoa gió tháng 7 trên Biển Đông.
79
Mỗi đợt gió mùa đông bắc kéo dài trung bình khoảng một tuần, kèm
theo gió mạnh, trong phần lớn trường hợp > 10 m/s. ở đảo Bạch Long Vĩ, nằm
giữa vịnh Bắc Bộ, số trường hợp vận tốc gió lớn hơn 12 m/s chiếm khoảng
50% và những đợt gió mùa đặc biệt mạnh tốc độ có thể vượt quá 20-15 m/s
trong các tháng 12 và tháng 1 hàng năm.
Khi gió mùa đông bắc tràn về, nhiệt độ không khí giảm mạnh tới vài
độ C, cá biệt có thể tới 100C trong vòng 24 giờ, nếu là trường hợp xảy ra vùng
áp thấp nông lại tiếp đến front lạnh tràn về đột ngột.
Bảng 2.5 . Số cơn bão và tần suất tại các vùng khác nhau trên thế giới
Vùng
Số cơn bão
Tần suất
I. Tây bắc Thái Bình Dương
22
36%
II. Đông Bắc Thái Bình Dương
10
16%
III.Tây Bắc Đại Tây dương
7
11%
IV. Biển ả Rập
2
3%
V. Vịnh Bangan
6
10%
VI. Nam ấn Độ Dương
6
10%
VII. Tây bắc châu úc
7
11%
Cộng
62
100%
Theo qui định của Tổ chức Khí tượng Thế giới, xoáy thuận là vùng áp
thấp nhiệt đới có chuyển động xoáy của không khí, trong đó được phân biệt
áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) có tốc độ gió dưới cấp 6 (11 m/s), bão - có tốc độ
gió từ cấp 6 đến cấp 12 (35 m/s) và bão lớn có tốc độ gió vượt qua cấp 12. Bão
là hiện tượng thời tiết nguy hiểm thường xảy ra ở vùng nhiệt đới của đại
dương.
Bão thường có đường kính khoảng vài trăm kilômét. Gió xoáy trong bão
có thể đạt 30 m/s hay hơn. Theo ảnh mây vệ tinh khí tượng cho thấy trong
phạm vi hoạt động của bão từ vùng rìa cho tới vùng mắt bẵo ít mây hoặc
quang mây. Trong những cơn bão phát triển mạnh, mắt bão có thể đạt kích
thước 5-10 hải lý (10-20 km).
80
Bảng 2.6. Bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam
theo các năm từ 1954 đến 1989
Năm
Số cơn
Năm
Số cơn
Năm
Số cơn
1954
4
1966
2
1978
12
1955
4
1967
5
1979
6
1956
6
1968
7
1980
9
1957
2
1969
3
1981
6
1958
4
1970
8
1982
6
1959
4
1971
8
1983
8
1960
10
1972
6
1984
7
1961
7
1973
11
1985
5
1962
7
1974
8
1986
5
1963
6
1975
6
1987
5
1964
11
1976
0
1988
4
1965
8
1977
3
1989
12
Cộng
224
Bảng 2.7. Số cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam theo các tháng
tính trung bình trong thời kỳ 1954-1989
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
năm
Tổng số
cơn
0
1
1
2
3
34
21
40
48
52
30
2
224
Số cơn
trung bình
năm
0
0,03
0,03
0,06
0,08
0,67
0,58
1,11
1,33
1,44
0,83
0,06
6,22
Trong bảng 2.5 theo số liệu thống kê 70 năm (1881-1953) thì tổng số
cơn bão hoạt động trong vùng 50 - 300 vĩ độ Bắc và 105 - 1500 kinh độ Đông
trung bình là 21,9 cơn/năm thuộc khu vực Tây bắc Thái Bình Dương trong đó
vùng biển phía đông Philippin là nơi xuất phát của đa số cơn bão (60%), số
bão còn lại phát sinh trực tiếp trên Biển Đông. Trung bình hàng năm có 9,6
cơn bão hoạt động trong Biển Đông, tức khoảng non nửa số bão hoạt động ở
81
tây bắc Thái Bình Dương .
Phù hợp với quy luật chung, tần số bão ở Biển Đông lớn nhất vào các
tháng giữa và cuối mùa hạ là thời kỳ có dải hội tụ nhiệt đới mạnh ở bắc bán
cầu. Tháng có tần số bão cực đại ở Biển Đông là tháng IX - X.
Vào tháng V, tháng VI bão xuất hiện còn ít, hướng di chuyển thường
thiên về tây bắc và chuyển mạnh sang bắc hoặc đông bắc, theo quỹ đạo dạng
parabol, hướng về bờ biển phía nam của Trung Quốc.
Vào các tháng tiếp theo VII, VIII, IX đường đi của bão thường theo
hướng tây tây bắc hoặc tây bắc rồi chuyển lệch về tây khi tới gần bờ biển từ
nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Vào tháng X, đường đi trung bình hướng về phía tây, về phía bờ biển
miền Trung Trung Bộ.
Vào tháng XI, XII do ảnh hưởng của lưỡi áp cao lục địa đã tiến khá xa
xuống phương nam, đường đi trung bình của bão dịch hẳn về phía nam, xấp xỉ
vĩ độ 12 - 130 Bắc, hơi lệch về tây nam, hướng về bờ biển Nam Trung Bộ và
Nam Bộ của Việt Nam. Số lượng cơn bão đổ bộ vào Việt Nam thay đổi nhiều
giữa các năm và giữa các vĩ độ khác nhau.
Theo thống kê của 36 năm gần đây (1954-1989) thấy năm có bão ít
nhất là năm 1976 không có cơn bão nào đổ bộ vào Việt Nam và năm 1957,
1960 chỉ có 2 cơn bão, năm nhiều nhất là có 10 cơn (1960), 11 cơn (1964,
1973), thậm chí 12 cơn (1978, 1989) và trung bình là 6,22 cơn áp thấp nhiệt
đới và bão (bảng 2.6).
Như vậy đối với cả nước, mùa bão là từ tháng VI tới tháng XI.
Sự phân bố theo không gian từng độ vĩ, bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ
vào ven biển Việt Nam trong 36 năm (1954-1989) được trình bày trong bảng
2.8.
Ta có thể thấy rõ những vùng bão hoạt động rất mạnh ở nước ta là
Quảng Ninh và Nam Hà Tĩnh - Đèo Ngang và những vùng bão hoạt động ít là
Vũng Tàu -Thành phố Hồ Chí Minh (10 - 110 vĩ độ Bắc). Khi xem xét kỹ toàn
bộ 224 cơn bão và áp thấp nhiệt đới trong 36 năm qua, điều đáng chú ý nhất là
bão và áp thấp nhiệt đới có nhiều trường hợp diễn biến bão khác thường như
xảy ra sớm hơn hoặc muộn hơn, không đổ bộ dần từ Bắc vào Nam mà có thể
trái lại. Thí dụ cơn bão xảy ra sớm nhất vào ngày 16/12/1965 tại vùng khơi
82
Minh Hải (cơn Sarah), muộn nhất ngày 19/10/1973 vào Quảng Ninh (cơn
Ruth), ngày 23/10/1988 vào Hải Phòng (cơn PAT), cơn bão sớm ngày
15/4/1956 vào Quảng Nam - Đà Nẵng (ATND) hay Quảng Ngãi - Bình định
(cơn Wanda ngày 1/5/1971) v.v...
Bảng 2.8. Phân bố bão đổ bộ vào Việt Nam theo vĩ độ từng thời kỳ
(1954-1989)
Vĩ độ bắc
Từ 21-220
20-21
19-20
18-29
Số cơn
32
29
26
17
Trung bình năm
0,89
0,81
0,72
0,47
17-18
16-17
15-16
14-15
13-14
31
19
12
10
14
9,86
0,53
0,33
0,28
0,39
12-13
13
0,36
11-12
10-11
9-10
8-9
Cộng
10
1
4
6
224
0,28
0,03
0,11
0,19
6,22
Phân cấp vùng hoạt động bão
RM
M
Trong đó
M
1. Rất mạnh
V
RM (từ 0,85 cơn/năm trở
lên)
RM 2. Mạnh
M
M (từ 0,51-0,84 cơn/năm)
V
3. Vừa
Y
V(từ 0,3 0,5 cơn/năm)
V
4. Yếu Y (từ 0,1-0,28
cơn/năm)
V
5. Hiếm H (dưới 0,1
cơn/năm)
T
H
Y
Y
Tốc độ di chuyển của bão trên Biển Đông tuỳ thuộc vào từng giai đoạn,
trung bình khoảng 18km/giờ, nhưng có khi di chuyển rất chậm, hầu như đứng
yên hoặc trái lại di chuyển rất nhanh (trên 40km/giờ). Những trường hợp bão
di chuyển khác thường đếu có nguyên nhân khác như bão chuyển hướng hoặc
dầy lên, có ảnh hưởng của cơn bão thứ hai (bẫo đôi) hoặc ảnh hưởng của
front cực đới tràn về.
Một trong những dấu hiệu chủ yếu đánh giá về cường độ của bão là trị
số khí áp ở tâm bão. Trên Biển Đông đã quan sát thấy một số trường hợp khí
83
áp ở tâm bão nhỏ hơn 930 miliba, thấp hơn trị số khí áp bình thường ở vùng
xung quanh khoảng trên 70 miliba.
ở Việt Nam đã quan sát thấy trị số khí áp thấp nhất ở tâm tới 967,4
miliba: cơn bão Winnie đổ bộ vào Tiên Yên ngày 3/7/1964 với tốc độ gió gần
30m/s và khi gió giật 42 m/s. Tốc độ gió 48 m/s đã quan sát được tại Văn Lý
(bão 9/9/1964) và Kỳ Anh (báo 8/19/1964).
2.4. Thủy triều và dao động mực nước
Một đặc điểm nổi bật nhất khiến cho Biển Đông khác rõ rệt so với các
biển khác trên thế giới là thành phần nhật triều đóng vai trò đáng kể. Trên bản
đồ tính chất thuỷ triều của Biển Đông nhật triều và nhật triều không đều
chiếm hầu khắp không gian của biển (hình 10). Một hiện tượng hiếm thấy trên
đại dương thế giới, trong khi đó các vùng tính chất bán nhật triều đều và
không đều thấy phổ biến ở các vùng biển khác lại chỉ choán những miền rất
nhỏ (hình 10). Những khu vực thuỷ triều có biên độ lớn và phức tạp là thềm
lục địa, nhất là vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và eo biển Đài Loan.
Sóng triều là loại sóng dài, có bước sóng hàng chục kilômét nên sự
truyền sóng triều trên biển phụ thuộc rất nhiều vào độ sâu và mức độ phức tạp
của địa hình lưu vực. Chính vì vậy sự truyền sóng triều trên Biển Đông có địa
hình phức tạp đã làm cho chế độ thuỷ triều ở đây rất đa dạng và phức tạp.
Với điều kiện tự nhiên của Biển Đông, ngoài những sóng triều được
trực tiếp tác động bởi lực hấp dẫn vũ trụ có giá trị rất nhỏ, hiện tượng triều
trên biển gần như hoàn toàn chịu sự chi phối bởi các sóng triều truyền đến từ
ngoài Thái Bình Dương và ấn Độ Dương vào Biển Đông. Do eo biển Malacca
nối với ấn Độ Dương tương đối hẹp và nông nên sóng triều chủ yếu được
truyền từ Thái Bình Dương qua lạch Bashi rộng, sâu và eo biển Đài Loan vào
Biển Đông.
Các sóng bán nhật triều truyền từ Thái Bình Dương vào Biển Đông qua
hai cửa này đang là nguồn chủ yếu, ban đầu với biên độ khá lớn, trên dưới 50
cm đối với sóng bán nhật triều M2, còn các sóng nhật triều trước khi vào Biển
Đông với biên độ rất nhỏ khoảng 13 cm đối với sóng 0 1 và 20 cm đối với
sóng K1.
84
Hình 10 Đặc điểm thuỷ triều Biển Đông
Khi truyền vào Biển Đông ban đầu dưới dạng sóng tiến, các sóng bán
nhật triều tiếp tục truyền nhanh qua vùng phía đông vào vùng trung tâm rộng
lớn và sâu. ở eo biển Đài Loan, các sóng này nhanh chóng chuyển thành sóng
triều đứng với những biên độ triều lớn nhất 210 cm đối với M2 tại vùng bụng
sóng ở phía bắc. Mặt khác, khi truyền tới thềm lục địa phía tây và tây nam của
biển, biên độ sóng triều cũng tăng dần. Vào vịnh Bắc Bộ các sóng bán nhật
triều chuyển thành sóng đứng với đường nút sóng tại Cát Bà (Việt Nam) - Bắc
85
Lê (Hải Nam,Trung Quốc) có biên độ nhỏ dưới 5 -10cm và có bụng sóng ở
Bắc Hải và vịnh Diễn Châu.
Các sóng bán nhật triều qua vùng trung tâm nước sâu với tốc độ nhanh
nhất lớn hơn 600 km/h (sóng S2) hoặc quá 800 km/h (sóng M2). Tới miền
nước nông có địa hình phức tạp ở phía tây nam biển, bao gồm vịnh Thái Lan,
sự truyền sóng bán nhật triều diễn ra khá phức tạp. Tại đây đã hình thành
những chùm sóng đứng liên kết giữa mấy vùng vô triều ở gần nhau, có chiều
quay khác nhau, nên không thấy rõ sự thoát ra biển Giava của các sóng bán
nhật triều.
Các sóng nhật triều khi qua lạch Bashi tiếp tục truyền về phía tây dưới
dạng sóng tiến là chủ yếu với tốc độ nhanh (cực đại gần 1.500 km/h) khi đi
qua vùng phía đông và trung tâm biển, nước sâu. ở phía nam của eo Đài Loan
khoảng vĩ độ 22 - 240 Nam, biên độ sóng nhật triều tăng lên rõ rệt có thể là do
sự gặp nhau giữa hai nhánh sóng nhật triều truyền từ Thái Bình Dương vào, từ
hướng đông bắc và từ hướng đông, đồng thời còn có thể do ảnh hưởng của bãi
ngầm cạn ở khoảng độ 230 Nam. Khi sóng nhật triều truyền vào tới gần vùng
bãi nông lục địa ở phía tây bắc cũng như tây nam và nam của biển, tốc độ
truyền của sóng này giảm đi rõ rệt, trong khi đó biên độ triều tăng lên đáng kể
khi tiến dần về phía bờ. Quá trình truyền sóng nhật triều diễn ra phức tạp hơn
khi chúng vào vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Từ sóng tiến chúng chuyển
thành sóng tiến - đứng và sóng đứng - tiến với chiều quay của đường đồng
triều theo ngược chiều kim đồng hồ ở quanh các điểm vô triều, lệch về bờ tây
và gần cửa vịnh với biên độ không quá 5 cm.
Đáng chú ý là các sóng nhật triều đi vào vịnh Bắc Bộ theo cả hai phía
eo Hải Nam hẹp và nông và cửa vịnh rộng và sâu hơn, gần như đồng thời .
Những giá trị lớn nhất của biên độ sóng nhật triều ở vịnh Bắc Bộ vượt quá
400-410cm và vịnh Thái Lan trên 45cm.
Các sóng nhật triều còn truyền từ Thái Bình Dương vào Biển Đông gián
tiếp qua biển Sulu một cách yếu ớt rồi qua eo biển Palawan không sâu lắm.
Lối thoát duy nhất của các sóng nhật triều là cửa phía nam của Biển Đông
thông sang biển Giava.
Bảng 2.9 dưới đây cho biết toạ độ của các điểm vô triều trên Biển Đông
theo các kết quả tính toán của các tác giả khác nhau, chứng tỏ có sự phù hợp
về cơ bản. Hình 11 tóm tắt các dạng phân bố biên độ sóng triều chủ yếu tại
86
vùng khơi Biển Đông, tại hai vịnh lớn của biển và eo Đài Loan, cùng với trắc
đồ độ sâu tương ứng.
Hình 11 Đặc điểm dòng triều và biên độ triều điển hình ở Biển Đông.
Do điều kiện truyền sóng triều qua nhiều lưu vực phức tạp trên Biển
Đông nên tính chất và độ lớn triều ở đây cũng diễn ra tương ứng.
Trên bản đồ 10 ta nhận thấy nét nổi bật của thuỷ triều trên Biển Đông là
tính chất nhật triều ưu thế, phần nhật triều không đều choán hầu khắp vùng
biển khơi rộng lớn, phần nhật triều đều choán hầu hết vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái
Lan và phần quan trọng phía tây của Philippin. Nếu ở các vùng biển khác của
thế giới tính chất bán nhật triều thường đóng vai trò chủ yếu, thì ở Biển Đông
chỉ quan sát thấy những khu vực bán nhật triều rất nhỏ ở eo biển Đài Loan,
khu vực lân cận cửa Thuận An và khu vực bán nhật triều không lớn ở phía
nam eo Đài Loan cho tới phía đông bắc đảo Hải Nam, khu vực vịnh Pulo
Lakei, vùng ven bờ đông nam Nam Bộ của Việt Nam, khu vực phía tây vịnh
Thái Lan và vùng lân cận Singapore. Tính chất nhật triều trở nên ưu thế trong
87