Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.06 KB, 160 trang )
8
cùng lúc đưa ra ba định nghĩa về diễn ngôn. Định nghĩa thứ nhất, diễn ngôn
bao gồm “tất cả các nhận định” nói chung; định nghĩa thứ hai, diễn ngôn như
là “một nhóm các nhận định được cá thể hoá”; định nghĩa thứ ba, diễn ngôn
“như một hoạt động được quy chuẩn (regulated practice) nhằm tạo nên một
tập hợp các nhận định”. Mặc dù ba định nghĩa của Foucault được liệt kê khá
độc lập nhưng trong thực tế nghiên cứu các định nghĩa này luôn được sử dụng
xen kẽ nhau và định nghĩa này có thể bao trùm lên định nghĩa khác tuỳ theo
hướng triển khai của người nghiên cứu.
Barthes trong La linguistique du discours (1970) coi diễn ngôn như là
một đối tượng của ngôn ngữ học văn bản mà ông đề nghị gọi là “ngôn ngữ
học diễn ngôn”. Ông viết: “…Diễn ngôn – tương tự văn bản do ngôn ngữ học
nghiên cứu, và chúng tôi sẽ định nghĩa nó (hãy còn là sơ bộ) như là một đoạn
lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội
dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một
tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại (đoạn lời này) gắn bó
với những nhân tố văn hoá khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến
bản thân ngôn ngữ”. [12,199]
Còn Bellert thì cho rằng “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn
S1 ..., Sn, trong đó việc lý giải nghĩa của mỗi phát ngôn S 1 (với 2 ≤ i ≤ n) lệ
thuộc vào sự lý giải những phát ngôn trong chuỗi S1 …Si-1”. [12,199]
Đối với Guy Cook, ông nêu: “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ
được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích”. [12,200]
Brown và Yule khi xử lí diễn ngôn như là “sản phẩm” hay “tiến trình”
thì lại khẳng định: “Diễn ngôn như một tiến trình”. [17,48]
Trong bài viết Nguồn gốc, vấn đề và phạm trù của dụng học,
Aрутюнова và Падучева viết: “…Diễn ngôn phản ánh chủ quan của con
người và do vậy, khác với những suy luận lý thuyết, diễn ngôn không thể xa lạ
với người nói. (…) Lý thuyết về diễn ngôn như hình thức của văn bản đã được
9
dụng học hoá được bắt đầu từ quan niệm của E. Benveniste phân định diện
tường thuật (récit) và diện diễn ngôn (discours) ngôn ngữ “được người nói sở
hữu”. Diễn ngôn, cần được hiểu ở đây nghĩa rộng nhất, như một phát ngôn
bất kỳ giả định có người nói và người nghe và ý định từ người nói tác động
theo cách nhất định đến người nghe”. [3,76]
Lý thuyết hiện đại về diễn ngôn (2006) của Ekaterenburg cũng đã dẫn
ra một số định nghĩa về diễn ngôn của Teun A Van Dijk, P. Riceau, M.
Foucault, Jakob Torfing, R. Barthes, Louis Maren…
Ngoài ra có thể kể đến Crystal, Paul Gee, Nunan, Lyons… cũng có đề
cập khái niệm diễn ngôn trong tác phẩm của mình.
Ở Viê tê Nam, với công trình Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn
bản, Diê pê Quang Ban là mô êt trong những tác giả tiêu biểu quan tâm và
nghiên cứu diễn ngôn. Trong tác phẩm này, ông đồng tình với định nghĩa của
Cook: “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa,
được hợp nhất lại và có mục đích” [12,200]. Có thể hình dung mối quan hệ
giữa diễn ngôn và văn bản như sau:
Diễn ngôn
Văn bản
(bề mặt từ ngữ)
(nghĩa lôgic, chức năng)
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa diễn ngôn và văn bản
Qua sơ đồ 1, ta thấy văn bản là bề mặt ngôn từ, diễn ngôn thuộc về
nghĩa lôgic và chức năng.
Có thể nói Diệp Quang Ban đã góp thêm vào bức tranh chung về nghiên
cứu diễn ngôn của các nhà Việt ngữ học khi ông đề câ êp đến lĩnh vực phân
tích diễn ngôn văn chương.
10
Còn tác giả Nguyễn Thiện Giáp, sau khi điểm qua một số quan điểm
khác nhau về khái niệm văn bản và diễn ngôn, ông nêu: “Thuật ngữ diễn
ngôn và văn bản thường được coi là đồng nghĩa với nhau để chỉ các sản
phẩm của ngôn ngữ, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể hợp
nhất, trong đó diễn ngôn thường được hiểu là bao hàm văn bản, còn văn bản
thiên về sản phẩm viết nhiều hơn”. [44,169]
Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Hòa nhấn mạnh sự
phân biệt hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản”. Theo ông, “ Văn bản như
là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp
nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Trong khi đó “Diễn
ngôn như là sự kiện hay là quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục
đích không giới hạn được sự dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ
thể” [54,28]. Mặc dù đã đưa ra sự phân biệt hai khái niệm như trên, song tác
giả cũng thừa nhận rằng trên thực tế sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối
vì theo cách hiểu đó, trong văn bản sẽ xuất hiện một vài đặc trưng của diễn
ngôn và ngược lại trong diễn ngôn cũng nhiều khi tồn tại các thuộc tính văn
bản.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Diễn ngôn là đơn vị lớn hơn câu,
đúng hơn là lớn hơn một phát ngôn, nó có thể là một phát ngôn mà cũng có
thể do vô số phát ngôn hợp lại.”; “Nó phải có tính mạch lạc…” [26,19]. Tác
giả cũng cho rằng, diễn ngôn có cả hình thức và nội dung nhưng cả hai đều
chịu tác dụng của ngữ cảnh.
Luâ ên án này đồng tình với quan điểm về khái niê êm diễn ngôn được thể
hiê ên ở sơ đồ 1 ở trên. Do vậy, phân tích diễn ngôn là phân tích cả các yếu tố
hình thức của diễn ngôn, bao gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng,
các quy tắc kết học, các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các yếu tố kèm
lời và phi lời, theo chúng tôi, cũng được xem là các yếu tố thuộc hình thức
của phát ngôn. Về nội dung, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng diễn
11
ngôn bao gồm nội dung thông tin và nội dung miêu tả. Hai thành tố nội dung
này có thể hiện diện tường minh qua các yếu tố ngôn ngữ hình thức của diễn
ngôn, hoặc tồn tại khiếm diện trong đích giao tiếp của đối tượng.
1.1.1.2. Đặc điểm về diễn ngôn
- Diễn ngôn là đơn vị lớn hơn câu/phát ngôn.Nó có thể là một phát
ngôn mà cũng có thể do vô số phát ngôn hợp lại.
- Nó phải có tính mạch lạc, nghĩa là có một đề tài, có chủ đề chung,
giữa các phát ngôn trong một diễn ngôn phải có quan hệ hình thức và nội
dung. Trong một cuộc giao tiếp có bao nhiêu đề tài, bao nhiêu chủ đề thì có
bấy nhiêu diễn ngôn.
- Mỗi loại hình diễn ngôn có cấu trúc mô hình riêng. Mô hình đó được
quy định bởi hành động giao tiếp chủ đạo như hành động tự sự, thỉnh cầu, lập
luận …
1.1.1.3. Phân loại diễn ngôn
Dựa vào cấp độ của diễn ngôn có thể chia diễn ngôn thành: diễn ngôn
và siêu diễn ngôn. Khổng Tử sáng lập ra siêu diễn ngôn Nho giáo, Thích ca
Mâu ni (Siddharta Gautama) sáng lập ra siêu diễn ngôn Phật giáo, Freud sáng
lập siêu diễn ngôn Phân tâm học, Ann Radcliffe sáng tạo ra diễn ngôn tiểu
thuyết kinh dị, Bakhtin tạo ra diễn ngôn đa thanh phức điệu. Chủ thể của các
siêu ngôn không chỉ khai phá ra một loại diễn ngôn mới, một ngôn ngữ mới
mà còn mở ra một con đường mới, mở ra các bước đi tạo ra các diễn ngôn
khác. Các siêu diễn ngôn luôn tạo ra sau nó vô số các diễn ngôn đồng dạng,
đồng chất với nó.
Dựa vào tính chất phát triển của diễn ngôn có thể chia diễn ngôn thành:
diễn ngôn liên tục và diễn ngôn ngắt quãng.
+ Diễn ngôn liên tục
Ví dụ (1): Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.
12
“
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra,
câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng
nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái,
đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một
cách vô cùng tàn nhẫn.
13
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước
Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực
khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc
kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được
ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để
chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh
hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính
trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân
đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp
chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ
tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã
nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực
dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ
chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho
toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp
ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên
đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực
dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công
nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được
tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
14
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
+ Diễn ngôn ngắt quãng
Ví dụ (2): Đoạn thoại giữa Kim Trọng và Thuý Kiều:
- "Sinh rằng gió mát trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
Chầy sương chưa nện cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ?
- Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra ai có tiếc gì với ai
- Rằng nghe nổi tiếng Chương Đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kì
- Thưa rằng: Tiện kĩ xá chi
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng").
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đoạn thoại trên có hai diễn ngôn: một diễn ngôn thỉnh cầu Kiều đánh
đàn của chàng Kim; một diễn ngôn chấp thuận lời thỉnh cầu đó của nàng
Kiều. Cả hai diễn ngôn này đều là diễn ngôn cách quãng gồm một phần mở
và phần trung tâm. Phần mở của diễn ngôn Kim Trọng là lời ướm, phần trung
tâm là hành động và nội dung thỉnh cầu. Phần mở của diễn ngôn Thuý Kiều là
lời rào đón và phần trung tâm là lời chấp nhận. Cả hai diễn ngôn của hai
người tạo thành một sự kiện lời nói. Bên cạnh đó, dựa vào mô êt số tiêu chí
khác, chúng ta cũng có thể phân chia diễn ngôn theo mô êt số cách khác nhau.
15
1.1.2. Phân tích diễn ngôn
1.1.2.1. Một số cách tiếp cận trong phân tích diễn ngôn
Khái niê êm “Diễn ngôn” ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX. Từ đó
đến nay, lý luận về diễn ngôn đã tiến một bước dài. Ở nước ngoài, quan tâm
đến lĩnh vực phân tích diễn ngôn tự sự có thể kể đến Roland Barthes với
Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, Todorov với Ngữ pháp truyện kể,
David Rumelhart với Ghi chú lược đồ về các câu chuyện, Gérard Genette với
Diễn ngôn tự sự, David Nunan với Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, Gillian
Brown và George Yule với Phân tích diễn ngôn... Ở Việt Nam, một số các
công trình nghiên cứu đề cập đến việc phân tích diễn ngôn tự sự như: Giao
tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản (Diệp Quang Ban), Phân tích diễn
ngôn: Một số vấn đề lý luận và phương pháp (Nguyễn Hoà), Biểu hiện của
quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại (Phạm Thị Thu Trang),
Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số tác phẩm văn học hiện đại (Trần
Thị Thu Hương)…
Với những hướng tiếp cận và ứng dụng khác nhau: dựa trên chủ nghĩa
cấu trúc và kí hiệu học, ngữ pháp chuyển hoá tạo sinh, đường hướng dụng
học, đường hướng giao tiếp liên văn hoá,… các công trình nghiên cứu nói
trên đã góp phần soi sáng một số vấn đề lý thuyết và thực hành về phân tích
diễn ngôn tự sự. Tuy nhiên, phân tích diễn ngôn văn học là việc khó, cho đến
nay hầu như chưa có một nhà ngôn ngữ học nào đưa ra một đường hướng
phân tích diễn ngôn tác phẩm tự sự một cách hoàn chỉnh, khoa học, thao tác
hoá được cách nghiên cứu diễn ngôn tác phẩm truyện của mọi thời, mọi ngôn
ngữ. Căn nguyên của điều này đã được Schiffrin chỉ rõ: phân tích diễn ngôn là
một lĩnh vực đa ngành, do vậy tuy được nhiều người quan tâm nó vẫn là một
địa hạt “ rộng mênh mông và ít nhiều còn mơ hồ của ngôn ngữ”.[3,17]
1.1.2.2. Một số công cụ lý thuyết của phân tích diễn ngôn
16
Để tìm ra đối tượng nghiên cứu, phương pháp và công cụ lý thuyết, hệ
thuật ngữ cho phân môn PTDN, dù đã nhiều năm tìm hiểu nhưng các nhà
nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất. Theo Diệp Quang Ban, G. Brown và
G. Yule công bố trong tài liệu Phân tích diễn ngôn, đề tài và vấn đề được bộ
môn PTDN quan tâm là:
1. Dẫn luận: các hình thái và các chức năng của ngôn ngữ
[Introduction: linguistic forms and functions]
2. Vai trò của ngữ cảnh trong việc lý giải (hiểu diễn ngôn – DQB)
[The role of context in interpretation]
3. Đề tài và việc biểu hiện nội dung của diễn ngôn [Topic and the
representation of discourse content]
4. ‘Cấu tứ’ và việc biểu hiện cấu trúc của diễn ngôn [‘Staging’ and the
representation of discourse structure]
5. Cấu trúc tin [Information structure]
6. Bản chất của quy chiếu trong văn bản và trong diễn ngôn [The
nature of reference in text and in discourse]
7. Mạch lạc trong việc lý giải diễn ngôn [Coherence in the
interpretation of discourse]
[12,164]
Phần liệt kê các nội dung cho thấy được cơ sở lý thuyết cũng như
phương pháp, đối tượng, công cụ… chủ yếu của nghiên cứu PTDN. Trước
hết, đó là việc chuyển từ nghiên cứu chủ yếu ở mặt hình thức ở bậc câu sang
việc nghiên cứu mặt nghĩa của diễn ngôn, không lấy các thuật ngữ nghiên cứu
câu làm công cụ lý thuyết mà đưa ra một chương trình làm việc khai thác diễn
ngôn từ những phương diện khác nhau. Phương pháp làm việc là dựa hẳn vào
ngữ cảnh tình huống. Đối tượng là toàn bộ các đề tài và vấn đề giúp hiểu (lý
giải) được diễn ngôn từ những phương diện thực tế của nó. Tuy nhiên các vấn
17
đề cần khám phá trong ngôn ngữ của diễn ngôn rất phong phú và thuộc về
nhiều loại, cho đến nay vẫn chưa được đề cập đến mức tạm gọi là đầy đủ.
Chính G. Brown và G. Yule cũng thừa nhận “còn bỏ trống nhiều
phương diện trong ngôn ngữ của diễn ngôn”. Như vậy, có thể nói PTDN là
mảnh đất màu mỡ đang và sẽ tiếp tục “cày xới” ngày càng nhiều hơn.
Luâ ên án này đồng ý với quan điểm của D.Nunan khi ông cho rằng khi
tìm hiểu diễn ngôn về mặt nghĩa, cần chú trọng hai vấn đề: mạch lạc diễn
ngôn và hành động ngôn ngữ.
Về mạch lạc diễn ngôn, ông dẫn ví dụ của Widdowson (1978)
A: Có điện thoại kìa.
B: Anh (em) đang tắm.
C: Thôi được.
Qua ví dụ này ta thấy, người sử dụng nó để biện hộ luận đề của mình
cho rằng liên kết không cần thiết mà cũng không đủ để thiết lập tính mạch lạc.
Ông tiếp tục nêu ra rằng chúng ta có thể công nhận văn bản này là mạch lạc
bằng cách tạo ra một ngữ cảnh, rồi nhận dạng các chức năng mà mỗi phát
ngôn hoàn thành trong ngữ cảnh đó.
Ví dụ (3):
Phát ngôn
Chức năng
A: Có điện thoại kìa.
Yêu cầu
B: Anh (em) đang tắm.
Xin lỗi
C: Thôi được.
Chấp nhận lời xin lỗi
Với việc tạo ra một ngữ cảnh có đủ nghĩa và việc nhận dạng được các
chức năng của từng phát ngôn thì tính mạch lạc được thiết lập.
Thuật ngữ hành đô êng ngôn ngữ do nhà triết học ngôn ngữ J.L. Austin
(1962) nghĩ ra và được nhà triết học J. Searle (1969) phát triển. Họ xác nhận
rằng, khi sử dụng ngôn ngữ không chỉ tạo ra những phát biểu có chứa mệnh
đề…, mà chúng ta cũng hoàn thành các chức năng như: yêu cầu, phủ nhận,
18
xin lỗi, cảm ơn…; việc nhận dạng hành động ngôn ngữ được thực hiện bởi
một phát ngôn riêng chỉ có thể làm được nếu chúng ta biết được ngữ cảnh mà
phát ngôn diễn ra. Ý định chức năng của người nói được biết đến với tên gọi
là lực ngôn trung.
Ví dụ (4): Nước trong bể hết rồi. (Nghĩa chủ yếu của ví dụ này là nghĩa
yêu cầu)
Hành động ngôn ngữ là hành động thực hiện khi tạo ra một phát ngôn
(diễn ngôn) trong một cuộc giao tiếp. Hành động ngôn ngữ đòi hỏi phải có
điều kiện, thao tác, cách thức tổ chức thao tác và quan trọng nhất là đích như
mọi hành động khác của con người có ý thức. [26,53]
a) Hành động ngôn ngữ có ba phạm trù cơ bản
* Hành động tạo lời ( locutionary act)
“Hành động tạo lời là hành động vận động các cơ quan phát âm (hoặc
cử động tay để tạo ra các nét chữ) vận dụng các từ và kết hợp các từ theo các
quan hệ cú pháp thích hợp thành các câu, rồi tổ chức các câu thành diễn
ngôn (văn bản)…”. [26,56]
* Hành động mượn lời (hành động xuyên ngôn) (perlocutionary act)
“Hành động mượn lời khi thực hiện một phát ngôn là hành động nhằm
gây ra những biến đổi trong nhận thức, trong tâm lý, trong hành động vật lý
có thể quan sát được, gây ra một tác động nào đấy đối với ngữ cảnh”. [26,56]
Ví dụ (5), nghe thông báo trên đài phát thanh : Ngày mai, 25 tháng 7 ở
Hà Nội sẽ có mưa lớn, sức gió cấp 4, cấp 5 tức 40 đến 50 km một giờ làm một
số người tỏ ra lo lắng, bực mình …
Hành động mượn lời rất đa dạng.
Ví dụ (6), một con vẹt phát: CHÁY, người nghe thường thì không có gì,
người chưa nghe thì bị ảnh hưởng, tức là có sự tác động đến người nghe (như
vậy, có thể có hành động mượn lời).