Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.06 KB, 160 trang )
63
trong tác phẩm văn học là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến nhất
của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn bản của mọi hoạt động ngôn
ngữ khác. Hội thoại thường là cuộc trò chuyện, đối đáp giữa hai nhân vật,
dạng phổ biến nhất của hội thoại là song thoại. Đơn vị cơ sở của hội thoại là
cuộc thoại. Cuộc thoại bao gồm toàn bộ sự tương tác qua lại giữa người nói
và người nghe kết hợp với sự luân phiên lượt lời và thay đổi vai trò trong suốt
quá trình giao tiếp. Những phát ngôn không có lời hồi đáp thì không được
xem là đối thoại.
Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một công cụ hữu hiệu
giúp nhà văn khắc họa tính cách nhân vật, tạo nên "lời ăn tiếng nói riêng" của
mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm vào trong cốt
truyện. Vì thế, có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật
trong truyện ngắn Nam Cao là một trường hợp độc đáo, tạo nên giọng điệu
riêng của nhà văn.
2.1.2. Tần suất xuất hiê ên của các cuô êc thoại
Khảo sát tần suất của các cuộc đối thoại và số lượt lời của các nhân vật
trong 20 đơn vị truyện ngắn của Nam Cao được sáng tác từ năm 1937 đến
năm 1943, chúng tôi lập được bảng thống kê sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
Tên truyện
Nghèo
Đui mù
Cái chết của con mực
Chí Phèo
Cái mặt không chơi được
Nhỏ nhen
Con mèo
Những truyện không muốn viết
Số
trang
6
5
4
32
9
7
5
6
Số
Số
cuộc
lượt
thoại
5
4
1
9
7
4
3
3
lời
40
10
2
41
40
39
26
16
Số lượt lời/
trang
6,66
2,00
0,50
1,28
4,44
5,57
5,20
2,66
64
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
Nhìn người ta sung sướng
Đòn chồng
Giăng sáng
Đôi móng giò
Trẻ con không ăn được thịt chó
Đón khách
Mua nhà
Quái dị
Từ ngày mẹ chết
Làm tổ
Thôi đi về
Truyện tình
Tổng cộng:
8
5
11
7
12
9
8
9
9
9
8
8
177
5
3
3
2
4
7
4
5
5
6
7
6
93
24
12
13
8
36
62
14
53
32
21
45
44
578
3,00
2,40
1,18
1,14
3,00
6,88
1,75
5,88
3,55
2,33
5,62
5,50
3,26
Bảng 1: Tần suất của các cuộc đối thoại và số lượt lời của các nhân vật…
Như vậy với 20 truyện ngắn chiếm dung lượng 177 trang sách, nhà văn
đã xây dựng 93 cuộc thoại chứa đựng 578 lượt lời. Tần số đơn vị diễn ngôn
trên số trang truyện ngắn là 3,26 lượt lời trên trang.
So sánh tần suất đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao với truyện ngắn
Khái Hưng, cây bút nổi tiếng trước Nam Cao khoảng mười năm, tác giả của
nhiều tập truyện ngắn được độc giả thời bấy giờ yêu thích như Anh phải sống
(1934 – in chung với Nhất Linh), Tiếng suối reo (1935), Dọc đường gió bụi
(1936) Đợi chờ (1939),..., người được đánh giá là “rất chú trọng đến nghệ
thuật dựng đối thoại và ông cũng tỏ ra rất có sở trường về mặt này. Lời thoại
của nhân vật ông thường lịch sự, tinh tế; ngôn ngữ đối thoại mang đặc điểm
tính cách thành phần xã hội rất rõ” [107, 81]; chúng tôi lập được bảng sau:
Tác giả
Số truyện
Khái Hưng
ngắn
20
Nam Cao
20
Số lượt lời/
Số trang
Số lượt lời
192
717
trang
3,73
177
578
3,26
65
Bảng 2: Bảng so sánh tần suất đối thoại trong truyện ngắn Nam
Cao với truyện ngắn Khái Hưng
Kết quả thống kê cho thấy trung bình trong một trang truyện ngắn,
Khái Hưng sử dụng trên ba lượt lời đối thoại, ở Nam Cao cũng thế. Từ đó có
thể khẳng định đối thoại cũng là “một thành phần diễn ngôn quan trọng”
trong truyện ngắn Nam Cao.
Từ kết quả khảo sát tần suất các cuộc đối thoại và số lượt lời của các
nhân vật trong 20 đơn vị truyện ngắn của Nam Cao (ở bảng 1), chúng tôi ghi
nhận được có tất cả 93 cuộc đối thoại với 578 lượt lời. Như vậy, bình quân số
lượt lời trong mỗi cuộc thoại của nhà văn là 6,2 lượt lời/ cuộc thoại. Dung
lượng ngắn của các cuộc đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao nói lên điều
gì? Phải chăng khi xây dựng hội thoại, nhà văn đã tiết chế, chọn lọc diễn ngôn
của các nhân vật hội thoại?
2.1.3. Tình huống cuô êc thoại, số lượt lời của nhân vâ êt
Tình huống đối thoại trong truyện là tình huống văn bản (ngữ cảnh văn
bản) được hàm ẩn ở lời thuyết minh trong văn bản hay lời kể của người kể.
Nó được cấu trúc một cách mạch lạc, được định hướng lập luận của tác giả,
bao gồm các nhân tố sau: Thời gian, không gian; Nhân vâ êt tiếp xúc và các
vấn đề của nó.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát chi tiết các truyện ngắn có dung lượng
lớn (trên 10 trang) và được đánh giá là những thiên truyện hay nhất, tiêu biểu
nhất của Nam Cao ở cả hai mảng để tài người nông dân nghèo và người trí
thức nghèo. Đó là các truyện ngắn đã và từng được lựa chọn, đưa vào giảng
dạy trong chương trình phổ thông: Chí Phèo, Lão Hạc, Giăng sáng, Đời thừa.
Với mục tiêu xác định các nhân vật giao tiếp, tình huống cuộc thoại và số lượt
lời/ cuộc thoại, chúng tôi lập được bảng thống kê sau:
Truyện
TT
cuộc
Số
Nhân vật
Tình huống cuộc thoại
lượt
66
ngắn
thoại
giao tiếp
lời/
cuộc
Số trang
CHÍ
PHÈO
1
Chí Phèo
thoại
Sau khi đi tù về, Chí Phèo đến
5
2
Bá Kiến
Chí Phèo
nhà Bá Kiến gây sự.
Chí Phèo mua rượu chịu và
Mụ hàng
quậy phá để đạt ý định.
rượu
Binh Chức
Binh Chức vác dao đến nhà Lý
Lý Kiến
Kiến đòi tiền đã gửi về nhà
4
Chí Phèo
những năm đi lính.
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến gây
7
5
Bá Kiến
Thị Nở
sự xin đi ở tù.
Chí Phèo say rượu, gần suốt
3
Chí Phèo
đêm ngủ ngoài vườn nên bị
Những
cảm, Thị Nở đưa hắn vào nhà.
Buổi sáng Chí Phèo dậy muộn,
3
32 trang
(trang
32
–
4
62)
6
4
5
người đi chợ hắn tỉnh rượu, lắng nghe âm
7
về
Chí Phèo
thanh cuộc sống.
Chí Phèo bày tỏ tình cảm với
3
8
Thị Nở
Chí Phèo
Thị Nở.
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến đòi
8
9
Bá Kiến
Thị Nở
lương thiện.
Khi hay tin Chí Phèo chết.
2
10
Bà cô
Lão Hạc
Lão Hạc tâm sự về ý định bán
6
11
Tôi
Lão Hạc
con Vàng.
Lão Hạc tâm sự với con Vàng
4
Cậu Vàng
về nỗi nhớ con.
67
12
13
Lão Hạc
Lão Hạc tâm sự về hoàn cảnh
Tôi
khó khăn khiến ông quyết định
Lão Hạc
bán con Vàng.
Lão Hạc tâm sự về nỗi ân hận
Tôi
đã lừa con Vàng, cậy nhờ ông
3
24
giáo giữ giúp miếng vườn và
14
Tôi
số tiền dành lo hậu sự.
Nỗi băn khoăn về sự thiếu đói
15
Vợ
Tôi
của Lão Hạc.
Phàn nàn về cách sống khổ sở
2
16
Binh Tư
Hiệu trưởng
của Lão Hạc.
Ép Điền phải nhận bộ ghế mây
3
Điền
và bàn cách chở bộ ghế về
17
Vợ Điền
quê.
Bàn việc đem cất những chiếc
1
18
Điền
Vợ Điền
ghế mây.
Con bé kêu đau bụng, vợ Điền
9
19
Con gái
Hộ
cho con uống nước gừng.
Hộ say rượu quát mắng vợ
3
20
Từ
Từ
con.
Từ nhắc khéo chồng đi lĩnh
10
Hộ
lương để có tiền trang trải các
Hộ
khoản mua chịu.
Hộ gặp Trung và Mão trên
11 trang
Trung
đường, anh mời hai người bạn
(trang 339 –
22
Mão
Hộ
nhà văn đi uống bia.
Hộ ân hận vì đã đối xử tệ bạc
2
23
Từ
Từ
với vợ.
Từ dỗ con.
1
LÃO HẠC
10 trang
(trang 247 –
GIĂNG
SÁNG
10 trang
(trang 104 –
113)
ĐỜI THỪA
350)
21
Đứa con
1
20
68
Bảng 3: Bảng thống kê nhân vật giao tiếp, tình huống cuộc thoại và số
lượt lời/ cuộc thoại
Với độ dài tổng cộng là 63 trang, 4 truyện ngắn trên có tất cả 23 cuộc
thoại (gồm 22 cuộc song thoại và 1 tam thoại), chiếm phần lớn là các cuộc
thoại dưới 5 lượt lời (14/23 cuộc thoại), số cuộc thoại trên 10 lượt lời rất ít
(3/23 cuộc thoại). Số liệu thống kê từ các truyện ngắn thành công nhất của
nhà văn một lần nữa khẳng định các cuộc hội thoại trong truyện ngắn Nam
Cao thường có dung lượng ngắn.
Nhìn chung, các cuộc thoại trong tác phẩm được nhà văn dàn dựng một
cách khéo léo. Nam Cao ba lần miêu tả trực tiếp cảnh Chí Phèo đến nhà Bá
Kiến để gây sự, ba cuộc thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến không lần nào giống
lần nào.
2.1.4. Quan hê ê quyền thế và hoàn cảnh giao tiếp của nhân vâ êt
Khảo sát các yếu tố: quan hệ liên cá nhân (ở đây là quan hệ quyền thế),
vị thế giao tiếp (mạnh/ yếu) và hoàn cảnh giao tiếp (thuận lợi/ không thuận
lợi) giữa hai nhân vật Chí Phèo – Bá Kiến, luâ ên án lâ êpđược bảng so sánh như
sau:
TT
cuộc
Tình huống cuộc thoại
Vị thế
Hoàn cảnh
quyền thế
giao tiếp
GT (thuận Số lượt lời
(trên/dưới) (mạnh/yếu) lợi/ không
thoại
1
Quan hệ
Sau khi đi tù về, Chí
thuận lợi).
CP BK
CP
BK
CP
BK
-
+
-
+
-
-
+
+
-
-
CP
BK
+
1
4
+
4
3
Phèo đến nhà Bá Kiến
2
gây sự.
Chí Phèo đến nhà Bá
Kiến gây sự xin đi ở
tù.
69
3
Chí Phèo đến nhà Bá
-
+
+
-
+
-
4
5
Kiến đòi lương thiện.
Bảng 4: Bảng so sánh quan hệ quan hệ quyền thế, vị thế giao tiếp
và hoàn cảnh giao tiếp giữa hai nhân vật Chí Phèo – Bá Kiến
Xét về mặt quan hệ quyền thế, địa vị xã hội của hai nhân vật giao tiếp ở
cả ba cuộc thoại là không thay đổi, một bên là tay anh chị liều lĩnh, chuyên
nghề rạch mặt ăn vạ - “một thằng cùng hơn cả thằng cùng”; một bên là
“chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào,
Bắc Kỳ nhân dân đại biểu”.
Xét phương diện vị thế giao tiếp, ở cuộc thoại thứ nhất, thế mạnh
nghiêng về Bá Kiến. Bởi tuy chủ động đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ, thế
nhưng khi cụ Bá xuất hiện và giải tán đám đông, Chí Phèo cảm thấy trơ trọi
một mình và “cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi của ngày xưa”.
Hoàn cảnh giao tiếp không thuận lợi và thái độ “xử nhũn” của Bá Kiến khiến
Chí Phèo ở vào thế bị động. Số lượt lời ít ỏi của nhân vật (1 lượt lời) nói lên
điều đó. Trong cuộc thoại thứ hai, Chí Phèo giữ vai trò chủ động, hắn yêu
sách, đỏi hỏi và hăm dọa tuy bề ngoài tỏ ra lễ độ, chào hỏi, thưa bẩm, xưng hô
đúng mực (gọi Bá Kiến bằng cụ và xưng con). Thế chủ động thể hiện ở số
lượt lời áp đảo của nhân vật (4/7 lượt lời) trong cuộc thoại.
Ở cuộc đối thoại cuối cùng giữa Chí Phèo – Bá Kiến, tuy bối cảnh vẫn
diễn ra tại nhà Bá Kiến nhưng hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi hơn cho Chí Phèo
vì “cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ bá đang nằm nghỉ trưa”. Cách
xưng hô, lời lẽ và cử chỉ của Chí Phèo cho thấy vị thế giao tiếp của nhân vật
lúc này ở thế mạnh và chủ động hơn so với Bá Kiến:
Ví dụ (46): “…, Cụ móc sẵn năm hào (…) để tống nó (Chí Phèo) đi
cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người.
70
- Chí Phèo đấy hở? Lè bè vừa thôi chứ, tôi không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi
thế à?
Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:
- Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:
- Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được
những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.
Biết không! Chỉ còn một cách… biết không! Chỉ còn một cách là… cái này!
Biết không!”
Trong cả bốn lượt lời ở đoạn đối thoại trên, Chí Phèo đều xưng “tao”
với cụ Bá và nói trống không, lời lẽ quát nạt, cao giọng. Đi kèm với giọng
điệu ngạo mạn là thái độ khinh thị ra mặt (trợn mắt chỉ tay vào mặt, vênh mặt
lên). Đổi lại, Bá Kiến đã phải “dịu giọng”. Cách xưng hô của Chí Phèo với Bá
Kiến bộc lộ vị thế giao tiếp lâm thời của nhân vật, từ vị thế thấp vươn lên
cao, từ vị thế bị chế ngự, bị động, chuyển sang thế chủ động. Tuy số lượt lời
của Bá Kiến nhiều hơn so với Chí Phèo một lượt lời (Bá Kiến 5 lượt lời, Chí
Phèo 4 lượt lời), nhưng càng về cuối, vị thế chủ động trong cuộc thoại này
71
nghiêng hẳn về phía Chí Phèo. Ở lượt lời cuối cùng, diễn ngôn của Bá Kiến
chỉ gồm hai câu ngắn gọn (Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên
hạ nhờ). Trái lại, Chí Phèo nói dài, anh làm chủ cuộc thoại, đáp trả dõng dạc,
rõ ràng lời của Bá Kiến. Tương quan số câu ở lượt lời cuối cùng của Chí Phèo
cho thấy điều đó. (8 câu, nhiều gấp 4 lần so với Bá Kiến).
Ba cuộc thoại giữa Chí Phèo – Bá Kiến đều diễn ra tại nhà Bá Kiến,
đều do Chí Phèo chủ động đến gây sự nhưng không lặp lại nhau. Nam Cao đã
khéo léo để cho hai nhân vật ở hai cực đối lập quyền thế, giàu có và cùng
đinh, nghèo hèn đối chọi nhau một cách gay gắt bằng những lời lẽ đối đáp hô
ứng, phản ánh vị thế giao tiếp và tính cách của các nhân vật, đồng thời hướng
đến đích giao tiếp (điều nhà văn muốn kể, muốn bộc lộ với người đọc) một
cách tự nhiên.
2.1.5. Các hình thức đối thoại (song thoại và đa thoại)
2.1.5.1. Song thoại
Đặc biệt, tài dựng đối thoại của nhà văn còn được thể hiện ở những
cuộc thoại có sự tương tác giữa người nói và người nghe, nhưng không có sự
luân phiên lượt lời giữa hai nhân vật giao tiếp. Trong truyện ngắn Chí Phèo có
hai cuộc thoại trực tiếp như thế.
Đó là cuộc thoại giữa Thị Nở và Chí Phèo diễn ta tại khu vườn chuối
gắn với ngữ cảnh Chí Phèo say rượu, suốt đêm ngủ ngoài trời, gần sáng, hắn
bị cảm lạnh và ói mửa dữ dội.
Ví dụ (47): “Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn … thị hỏi hắn:
- Vừa thổ hả?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay.
- Đi vào nhà nhé?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí
mắt là nhích thôi.
- Thì đứng lên.
72
Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ
cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người
lảo đảo đi về lều”.
Trong cuộc đối thoại này, chỉ có ba lượt lời của Thị Nở. Chí Phèo
không nói câu nào (vì mệt rũ người, không cất nổi tiếng) nhưng vẫn đáp lại
câu hỏi và đề nghị của Thị Nở bằng bằng thái độ, cử chỉ của mình. Tương tự
là cuộc chuyện trò, tâm tình giữa Chí Phèo và Thị Nở tại nhà Chí Phèo sau
đêm họ gặp gỡ nhau tại khu vườn chuối:
Ví dụ (48): “…Hắn băn khoăn nhìn Thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im
lặng, cười tin cẩn, hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế
cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình
theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí
khanh khách cười. Lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng
lòng lắm.bấy giờ thí mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui.
Hắn bẹo Thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn người lên. Và hắn cười, hắn lại bảo:
- Đằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?
Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa đùa…”
Đây là cuộc song thoại có người nói, người nghe, nhưng không có sự
luân phiên lượt lời. Tuy chỉ có Chí Phèo cất tiếng nhưng giữa hai nhân vật
giao tiếp vẫn có sự tương tác, hô ứng với nhau. Trong cảnh huống này, trước
lời tỏ tình và đề nghị bộc tuệch của Chí Phèo, nhà văn đã khéo léo để cho Thị
Nở - cô gái quá lứa lỡ thì - trả lời bằng thái độ e lệ, cử chỉ lườm nguýt, phát
yêu. Ở đây, ngòi bút của nhà văn đã theo sát lôgic của hiện thực và chứng tỏ
sự già dặn, sắc sảo khi dựng đối thoại chỉ gồm một phía.
73
Ba lượt lời của Chí Phèo gồm hai câu hỏi và một lời đề nghị:
- Giá cứ này mãi thì thích nhỉ!
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.
- Đằng ấy có nhớ gì hôm qua không?
còn hé mở một góc khuất trong bản tính nhân vật. Là một kẻ lưu manh
chuyên nghề rạch mặt ăn vạ, Chí Phèo mở miệng ra là “chửi trời, chửi đời,
chửi cả làng Vũ Đại”, chửi cả “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”. Hắn luôn giở
giọng ngang tàng, phách lối, xem thường mọi người, từ ngữ xưng hô quen
thuộc nơi cửa miệng hắn là “ông”, là “tao”. Vậy mà trò chuyện với Thị Nở,
Nam Cao đã đặt vào cửa miệng Chí Phèo lối nói trống không, thân tình (Giá
cứ thế này mãi thì thích nhỉ?), lối xưng hô tớ - mình (Hay mình sang đây ở
với tớ một nhà cho vui), gọi Thị Nở là “đằng ấy”. Đây là lần duy nhất trong
tác phẩm, Chí Phèo trò chuyện cởi mở, xưng hô thân mật với người đối thoại.
Diễn ngôn của nhân vật bộc lộ tình cảm mộc mạc, chân thành với Thị Nở.
Phía sau bộ mặt chằng chịt những vết sẹo của không biết bao lần rạch mặt ăn
vạ vẫn là một trái tim biết yêu thương, mong muốn được yêu thương, và thiết
tha, khao khát một mái ấm gia đình.
Cuộc trò chuyện giữa Lão Hạc và con chó Vàng trong truyện ngắn Lão
Hạc cũng là một cuộc thoại “hẫng” vì chỉ có lời của một phía. Người cha già
nua tuổi tác sống cô đơn, vò võ một mình uống rượu và trút nỗi niềm mong
nhớ, trông đợi đứa con trai đi xa với “người bạn tâm tình” đặc biệt của mình:
Ví dụ (49): “- Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu vàng? Bố cậu lâu
lắm không có thư về. Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy… Hơn ba
năm… Có đến ngót bốn năm… Không biết cuối năm nay bố cậu có về không?
Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!
Con chó vẫn hếch mồm nhìn lên, chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt nhìn
trừng trừng vào mắt nó, to tiếng dọa:
- Nó giết mày đấy? Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!