Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.06 KB, 160 trang )
99
Trong phạm vi chương hai, chúng tôi tập trung tìm hiểu sự mạch lạc
của các cặp thoại Hỏi - Đáp theo quan điểm của Diệp Quang Ban trên mặt
biểu hiện mạch lạc trong quan hệ giữa các để tài, chủ đề của các phát ngôn.
3.1. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp
Khi phân loại câu theo lực ngôn trung và theo nghĩa biểu hiện, Cao
Xuân Hạo [48,391-412], đã đưa ra các loại hành động ngôn trung gồm: câu
nghi vấn, câu trần thuật có giá trị ngôn trung được đánh dấu và câu ngôn
hành. Giá trị phần lớn các hành động ngôn trung này lệ thuộc vào ngữ cảnh.
Đặc biệt là loại câu nghi vấn của tiếng Việt, ngoài cái giá trị hỏi là giá trị ngôn
trung trực tiếp của nó còn có thể có một hay một số giá trị ngôn trung phái
sinh (phủ định, khẳng định, thách thức, tranh luận…). Ông đã đưa ra sáu loại
câu nghi vấn như sau:
- Câu hỏi chính danh
- Câu hỏi có giá trị cầu khiến
- Câu hỏi có giá trị khẳng định
- Câu nghi vấn có giá trị phủ định
- Câu nghi vấn phỏng đoán hay ngờ vực
- Câu nghi vấn có giá trị cảm thán
Trong luận án này, với sáu kiểu câu nghi vấn trên, chúng tôi xác lập sáu
kiểu cặp thoại Hỏi – Đáp như sau:
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi chính danh
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi cầu khiến
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi khẳng định
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với nghi vấn phủ định
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu nghi vấn phỏng đoán
hay ngờ vực
- Cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu nghi vấn có giá trị cảm
thán
100
Trong chương hai này, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những cặp thoại
mà mạch lạc được thể hiện một cách rõ ràng, có thể nhận thấy ngay qua yếu
tố ngôn ngữ hiển ngôn. Đây là những cặp thoại mà câu đáp sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ hiển ngôn để lấp đầy điểm hỏi trong câu hỏi, tức là
chúng có chung một đề tài chủ đề, có sự liên kết chặt chẽ, liền mạch.
Ví dụ (61):
- Anh ấy chưa ăn xong kia à?
- Xong rồi. Có một nắm xôi vừa bằng quả sung…
(Chí Phèo)
Ở ví dụ này, chúng ta thấy xuất hiện cặp phụ từ “chưa… xong” trong
câu hỏi thì đến câu đáp cũng xuất hiện từ “xong”. Trọng tâm hỏi của người
hỏi là vấn đề ăn cơm xong hay chưa. Với câu trả lời “xong rồi”, người trả lời
đã hiểu và giải đáp đúng với yêu cầu của người hỏi, lấp đầy điểm hỏi và làm
thoả mãn thông tin người hỏi muốn biết. Phụ từ “xong” xuất hiện trong cặp
thoại làm cho sự liên kết giữa hai phát ngôn thêm chặt chẽ và tăng tính mạch
lạc cho cặp thoại.
Một ví dụ (62) khác:
- Tạnh mưa rồi à?
- Tạnh rồi. Dậy đi!
(Con mèo)
Trong cặp thoại này, trọng điểm hỏi được đưa ra là tạnh mưa hay chưa.
Câu trả lời: “Tạnh rồi”, nó giải đáp đầy đủ trọn vẹn thông tin người hỏi muốn
biết. Về mặt nội dung, có sự tương hợp hoàn toàn giữa phát ngôn hỏi và phát
ngôn đáp khi người trả lời hiểu và đáp lại đúng điều mà người hỏi muốn biết.
3.1.1. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu hỏi
chính danh
Câu hỏi chính danh là câu hỏi yêu cầu một câu trả lời thông báo về
một sự tình hay một tham tố nào đó của một sự tình được TGĐ là hiện thực .
101
Mạch lạc trong các cặp thoại dạng này được xem xét ở câu đáp trên cả hai
bình diện hình thức (phương thức liên kết) và nội dung (trả lời đúng điểm hỏi
của câu hỏi, cung cấp đầy đủ thông tin mà người hỏi yêu cầu).
Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu hỏi chính
danh được chia làm các loại sau đây:
3.1.1.1. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu
hỏi chính danh chuyên biệt
Câu hỏi chuyên biệt được cấu tạo như một câu trần thuật, với một yếu
tố nghi vấn (vốn do một đại từ bất định làm nòng cốt) biểu thị biến tố không
xác định X đặt ở vị trí do chức năng cú pháp của nó quy định, luôn xuất hiện
từ nghi vấn dùng để hỏi nguyên nhân: ai, gì, nào, sao, tại sao, vì sao, bao
giờ… Ví dụ, trong Tuyển tập Nam Cao, chúng tôi thống kê được tất cả 20/437
(4,58%) cặp thoại Hỏi – Đáp có câu hỏi chứa từ “gì” đứng ở cuối câu. Trên
bình diện thông báo, nó làm thành tiêu điểm của câu hỏi và câu trả lời, nó là
cái “mới” cần thông báo.
Ví dụ (63):
- Cái gì mà mày chạy bình bịch như thế?
- Xe cậu phán!
(Đón khách)
Trong ví dụ này, người hỏi đã dùng định tố bất định “gì” để nêu lên
trọng tâm hỏi, muốn làm rõ điều mà mình quan tâm. Lúc này, “gì” trở thành
tiêu điểm thông báo. Nhiệm vụ của người đáp đã đáp ứng được yêu cầu của
người hỏi, dù phát ngôn đáp đã tỉnh lược một phần của nội dung. Chúng ta có
thể khôi phục lại bằng một hình thức như sau:
- Cái gì mà mày chạy bình bịch như thế?
- (Vì thấy cái) xe cậu phán (nên tôi chạy bình bịch như thế).
Dù tỉnh lược một phần của phát ngôn nhưng người hỏi (bà đồ Cảnh)
vẫn hiểu được nguyên nhân của sự tình. Vì thằng Tình đang đứng hầu rìa đám
102
quay đất ở ngay ngoài đường cái, bỗng nó thấy xe từ phía dưới đi lên nên vội
chạy về nhà. Bà đồ Cảnh đoán là cậu phán đã về, nên hỏi. Như vậy, cuộc
thoại đã bảo đảm được tính liên kết hình thức và vẫn được duy trì, thống nhất
theo một chủ đề, tức là nó đã đảm bảo được tính mạch lạc nội dung.
Chúng ta xem thí dụ (64) sau:
- Sao mẹ ra được sớm thế?
- Mẹ ra đi bằng chiều đi chợ vải, đến cầu sắt thì giời mới sáng.
(Truyện tình)
Cuộc thoại cho thấy mẹ của Lưu ra tỉnh đón Lưu về trong kỳ nghỉ
hè. Bà đi từ chiều hôm trước không phải đi bán vải mà là để xem “còn
có gì phải đội về hay không”, quan trọng hơn là đến thăm con và dự định
rước con về nhà. Câu hỏi và câu trả lời thống nhất về nguyên nhân “mẹ
ra được sớm thế”. Cặp thoại Hỏi – Đáp này đảm bảo được tính liên kết
và tính mạch lạc.
3.1.1.2. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu
hỏi chính danh hạn định
Câu hỏi chính danh hạn định là câu hỏi thường dùng định từ ở cuối câu,
yêu cầu trả lời bằng một danh từ hay một vị từ.
Định từ cuối câu thông thường là: ai, gì, nào, đâu, sao, bao, mấy, cái
gì, tại sao, thế nào, thứ mấy, bao nhiêu, …
Ví dụ (65):
- Các cụ ở nhà đối với việc các chị vào đội du kích như thế nào?
- Đều vui lòng cả…
(Những bàn tay đẹp)
Phân tích ví dụ trên, ta thấy người hỏi muốn biết gia đình của các chị
em nông dân có thái độ “ưng thuận” cho các chị em vào đội du kích hay
không. Câu trả lời đối với trường hợp này thường là vị từ. Trong câu trả lời
103
người nghe sẽ lựa chọn một trong hai hướng trả lời: ưng thuận hay không ưng
thuận. Như vậy, cặp thoại Hỏi – Đáp này đã đảm bảo được tính mạch lạc.
Một ví dụ (66) khác:
- Mắc ca lăng?(Quả gì)
- Mắc qua. (Quả dưa)
(Ở rừng)
Đọc ví dụ trên, ta thấy Tư - người hỏi, muốn biết quả gì mà chị Pin
đang cầm trên tay. Chị Pin trả lời là “mắc qua” (quả dưa). Câu trả lời đối với
trường hợp này chắc chắn phải là danh từ. Như vậy, cặp thoại Hỏi – Đáp này
đã đảm bảo được tính mạch lạc.
104
3.1.1.3. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu hỏi
chính danh về thực cách của một mệnh đề được cấu tạo bằng cách sử
dụng cặp vị từ tình thái “…có/ đã… không/ chưa”
Hình thức câu hỏi này, có lẽ bắt nguồn từ một câu hỏi hạn định. Từ
“không/ chưa” đứng vị trí kết thúc câu không còn là trung tâm của một vị ngữ
tỉnh lược nữa. Nó đã mất trọng âm đặt ở hai trung tâm của một câu ghép sử
dụng cặp vị từ tình thái “…có/ đã… không/ chưa”. Nó trở thành một trong
những yếu tố tình thái cuối câu được gọi là tiểu từ tình thái. Về phía người
nghe, câu trả lời cũng có nhiều cách khác nhau, có thể trả lời theo tính chất có
hay không, hoặc trả lời theo vị từ trung tâm.
Trong Tuyển tập Nam Cao, chúng tôi thống kê được tất cả 45/437
(10,30%) cặp thoại Hỏi – Đáp có câu hỏi chứa cặp từ “có … không”.
Ví dụ (67):
- Ông có nhớ giờ sinh không?
- Thưa cụ không biết rõ; chỉ biết vào buổi chiều khoảng chín,
mười giờ gì đó..
(Xem bói)
Đây là dạng cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi chính danh
chuyên biệt được cấu tạo bằng cách dùng cặp vị từ tình thái “…có/đã …
không/chưa”. Câu hỏi tổng quát “có” / “không” yêu cầu cho biết giá trị chân /
nguỵ của cả một mệnh đề. “Không” trong câu hỏi với tư cách kết thúc phát
ngôn, nó có vai trò nhất định trong trung tâm của một vị ngữ ở phát ngôn trả
lời. Trong ví dụ trên, người trả lời dùng vị ngữ “không biết rõ” để đáp lại. Ở
phát ngôn trả lời, có thể chỉ cần sử dụng một yếu tố “có” hoặc “không” thì
người hỏi vẫn hiểu được nội dung sự tình phát ngôn trả lời.
Một ví dụ (68) khác:
- Vâng, chúng cháu xem có ai thuê thì gặt. Ở đây ta đã gặt xong
chưa, cụ?
105
- Xong từ bao giờ rồi. Chúng tôi ít ruộng lắm.
(Quái dị)
Trường hợp này, chúng ta có thể khôi phục lại như sau:
- Vâng, chúng cháu xem có ai thuê thì gặt. Ở đây ta đã gặt xong
chưa, cụ?
- (Ở đây chúng tôi đã gặt) xong từ bao giờ rồi. Chúng tôi ít
ruộng lắm.
Đối với hình thức này, “chưa” với tư cách kết thúc phát ngôn hỏi nhưng
đối với phát ngôn trả lời không có vai trò trung tâm của một vị ngữ (tỉnh lược)
nữa. Nó đã mất trọng âm đặt ở hai trung tâm “đã” và “chưa” của phát ngôn
hỏi.
Có thể xem tiếp một ví dụ (69):
- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
- Ăn chè đấy chứ.
(Nghèo)
Trường hợp này, chúng ta có thể khôi phục lại như sau:
- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
- (Lúc nãy mẹ con con) ăn chè đấy chứ.
Cặp thoại trên có sự liên kết hình thức qua phương thức tỉnh lược và
chúng liên kết chặt chẽ nhau về mặt nội dung hỏi – đáp, bằng hình thức trả lời
phải hay không phải. Phát ngôn trả lời không nhất thiết phải có từ ngữ cụ thể
“phải” hay “không”, mà trả lời trực tiếp bằng đối tượng cụ thể, chính xác
“chè”. Phát ngôn trả lời đã tỉnh lược cả phần nêu (chủ ngữ) chỉ còn phần báo
(vị ngữ).
Ví dụ (70):
- Mợ mày đã trông thấy mày chưa?
Hiền lắc đầu.
(Truyện người hàng xóm)
106
Câu hỏi trong ví dụ này xuất hiện cặp vị từ tình thái “…đã … chưa”.
Căn cứ theo câu hỏi, người nghe có nhiều cách trả lời, có thể trả lời theo tính
chất có hay không, hoặc trả lời theo vị từ trung tâm. Ở đây, người đáp không
trả lời trực tiếp mà đáp lại bằng yếu tố phi ngôn ngữ “lắc đầu”. Đây không
phải cặp thoại Hỏi – Đáp.
Ví dụ (71):
- Bếp có rỗi không?
- Rỗi. Ý dáng ông lang định thổi cơm ăn? Đã đói bụng rồi đấy
à?
(Lang Rận)
Trong câu hỏi nếu chuyển đổi để cho nó đầy đủ thì nó sẽ như sau: “Bếp
có rỗi hay không rỗi?”. Ở đây xuất hiện cặp vị từ tình thái “có…không”.
Nhưng trong trạng thái ngày nay của tiếng Việt, hình thức hỏi tổng quát đã
được ngữ pháp hoá thành một hình thức riêng. Đó là một câu hỏi có tiểu từ
tình thái đứng cuối câu. Người nghe có nhiều cách trả lời, có thể trả lời theo
tính chất có hay không, hoặc trả lời theo vị từ trung tâm. Ở đây, người đáp trả
lời “rỗi” (tức là “có”) – theo hình thức chọn vị từ trung tâm. Như vậy, cặp
thoại Hỏi – Đáp này đã đảm bảo được tính mạch lạc.
3.1.1.4. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu hỏi
siêu ngôn ngữ mở đầu bằng có phải và kết thúc bằng không ở giữa là một
mệnh đề trọn vẹn
Đây là dạng cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi chính danh
chuyên biệt được cấu tạo bằng cách dùng cặp vị từ tình thái “…có phải …
không”. Câu hỏi tổng quát “có phải” / “không” yêu cầu cho biết giá trị chân /
nguỵ của cả một mệnh đề. “Không” trong câu hỏi với tư cách kết thúc phát
ngôn, nó có vai trò nhất định trong trung tâm của một vị ngữ ở phát ngôn trả
lời.
107
Trong Tuyển tập Nam Cao, có tất cả 05/437 (1,14%) cặp thoại Hỏi –
Đáp có câu hỏi chứa cặp từ “có phải… không”. Tần số xuất hiện của loại cặp
thoại này rất thấp.
Ví dụ (72):
- Có phải bố mày bán nhà này rồi không?
- Con không biết.
(Từ ngày mẹ chết)
Trong ví dụ trên, người trả lời (Ninh) có thể chỉ cần sử dụng một yếu tố
“không” để trả lời thì người hỏi (bà ngoại Ninh) vẫn hiểu được nội dung sự
tình phát ngôn.
Dạng câu hỏi này yêu cầu cho biết tính xác thực của một mệnh đề được
biểu thị bằng một câu trọn vẹn.
Ví dụ:
- Có phải thế không, anh Hiệp?
- Vâng, phải lắm.
(Sao lại thế này)
Trong câu hỏi, người nói muốn người nghe xác nhận tính chân thực của
một vấn đề đã được nêu ra ở một ngữ cảnh trước đó và người nghe xác nhâ ên
“vâng, phải lắm” tức là đã đồng tình và khẳng định tính chân thực của sự việc
mà người nói đang nghi ngại. Câu trả lời trực tiếp đi thẳng vào vấn đề, khiến
cho sự tương hợp nội dung của cặp thoại được bộc lộ rõ ràng cụ thể.
Xét ví dụ (73) sau:
- Nhưng biết rằng có phải tại thuốc của nó không?
- Sao không phải? Thì chính những người ấy bảo!
(Lang Rận)
Câu hỏi này yêu cầu cho biết tính xác thực của một mệnh đề có phải tại
thuốc hay không phải tại thuốc. Người nghe buộc phải trả lời có hoặc không.
108
Ở đây người nghe trả lời “Sao không phải? Thì chính những người ấy bảo!”,
tức là đã khẳng định tại uống thuốc của tay “đại danh sư” mới ra như vậy.
3.1.1.5. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp tương hợp với câu hỏi
được cấu tạo bằng cắt ghép một tiểu cú “phải không/ chứ/ đúng không/ có
không” sau mệnh đề được đưa ra hỏi
Một dạng của cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp với câu hỏi chính danh
chuyên biệt được cấu tạo bằng cách dùng cặp vị từ tình thái “…có/đã …
không/chưa” là dạng được cấu tạo bằng cách ghép một că êp từ phải không,
phải không chứ, đúng không, có không, đã chứ… sau mệnh đề được đưa ra
hỏi.
Trong Tuyển tập Nam Cao, chúng tôi phát hiện có tất cả 09/437
(2,06%) cặp thoại Hỏi – Đáp có câu hỏi chứa că pê từ “phải không” đứng ở
cuối câu (ngoài ra còn có cặp thoại Hỏi – Đáp có câu hỏi chứa từ “phỏng”
thay cho ….. “phải không” đứng ở cuối câu. Tần số xuất hiện của loại cặp
thoại này thấp.
Đặc thù của loại câu hỏi này là thăm dò hoặc mong chờ sự xác nhận
phản ứng hoặc thái độ của người giao tiếp, câu trả lời thường có hai khả năng
có hoặc không.
Ví dụ (74):
- Thì uống đi. Sao lại cứ ngồi mãi thế? Uống xong chúng mình
còn phải sang bên kia đánh vài hội chắn. Tội cóc gì mà không chơi, phải
không anh?
- Vâng ạ! Thưa cụ, phương ngôn người ta bảo: “Chẳng ăn cũng
thiệt, chẳng chơi cũng già”.
(Người hàng xóm)
Trong phát ngôn hỏi loại này, nói như Cao Xuân Hạo, mệnh đề được
đưa ra hỏi thiên về tính chân xác của mệnh đề được TGĐ nhiều hơn: “Tôi biết
rằng P, nhưng muốn anh xác nhận thêm (tuy cũng còn có khả năng là anh sẽ
109
phủ nhận)”. Nội dung sự tình của phát ngôn hỏi là việc ăn chơi, sống thì phải
biết ăn chơi, hưởng thụ. Đây là đoạn thoại giữa anh Hiền và ông Ngã trong
một cuộc uống rượu. Việc uống rượu ấy với mục đích “Hắn chỉ muốn có thể
ngồi với Tiền trọn buổi. Chút quà mọn ấy, cốt để vừa lòng ông Ngã”. Vì thế,
Hiền chẳng ngày nghỉ nào không sang uống rượu với ông Ngã – cha của Tiền,
uống với người biết uống để nói ba hoa và sâu xa hơn là được trò chuyện tự
do với người mình yêu. Trong ví dụ trên, Hiền trả lời không bằng “phải” hay
“không”, mà bằng từ “vâng ạ”. Như vậy, là đồng tình với nội dung câu hỏi
nêu ra. Cặp thoại Hỏi – Đáp này đảm bảo chặt chẽ tính mạch lạc của nó.
Một ví dụ (75) khác:
- Chắc mình cũng có quen anh Hiệp? Bây giờ mới nhớ, phải
không?
- Không! Không! Sao mình nói thế?
(Sao lại thế này)
Mở đầu cuộc thoại Nam Cao đưa ra mệnh đề để hỏi mang tính chất giả
định nhưng thực chất có dụng ý khẳng định, nó có một tiền giả định: có một
người tên Hiệp, nhân vật “mình” có quen với anh Hiệp. và cũng trong câu hỏi
người nói muốn người nghe xác định thêm tính chân thật của mệnh đề. Ở đây
người nghe thể hiện phủ định tính chân xác của mệnh đề trên. Như vậy trong
câu trả lời, người nghe thể hiện sự không đồng tình của mình. Không xác
nhận ý kiến của người nói đưa ra là đúng, là chân thực.
Bên cạnh cặp thoại Hỏi – Đáp có dạng được cấu tạo bằng cách ghép
că êp từ phải không, phải không chứ, đúng không, có không, đã chứ… sau
mệnh đề được đưa ra hỏi, chúng tôi thấy trong truyện ngắn Nam Cao còn xuất
hiện những từ tình thái như: chứ, chưa, mà, đã, vậy, cả… đứng ở cuối câu
hỏi. Tần số xuất hiện của dạng cấu tạo này rất thấp.
Ví dụ (76):
- Xong rồi chứ?