1. Trang chủ >
  2. Thể loại khác >
  3. Tài liệu khác >

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.39 KB, 38 trang )


Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



Về phía nhà trường hiện nay những trường hợp nữ học sinh trở thành mẹ hay

những cái chết thương tâm bởi bản thân vướng vào con đường tình yêu, tình dục

quá sớm… không còn xa lạ. Đó là hệ quả tất yếu từ việc “xem nhẹ” chương trình

giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong trường học hiện nay. Chương trình

giáo dục giới tính hay bị bố mẹ né tránh cho rằng giáo dục giới tính là việc của nhà

trường. Nhưng thực tế hiện nay ở trường học, việc giáo dục giới tính chưa được

thực hiện đến nơi đến chốn nên học trò đang phải tiếp cận kiến thức một cách “nửa

vời”. Nếu như ở cấp tiểu học học sinh học về giới tính ở lớp 5 thì lên cấp Trung học

cơ sở, phải đợi tới lớp 8, giáo dục giới tính mới trở lại, chủ yếu nằm ở môn sinh

học như cơ quan sinh dục nam/nữ, thụ tinh/thụ thai và phát triển thụ thai, cơ sở

khoa học của các biện pháp tránh thai.

Tuy nhiên, đúng là cách tiếp cận vấn đề giới tính hiện chưa hấp dẫn và vẫn

mang nặng kiến thức khoa học nhiều hơn là tâm lý. Vì thế, học sinh càng học thì

càng tò mò. Chẳng hạn sau khi cô giáo dạy “quá trình tinh trùng kết hợp với trứng

được gọi là sự thụ tinh. Trứng đã được thụ tinh gọi là hợp tử", đa phần các em thắc

mắc tiếp… “làm thế nào để tinh trùng gặp được trứng?”.

Từ tất cả những lí do trên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “ Vận dụng kiến thức về

cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9”

II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN

Kết quả nghiên cứu giúp học sinh THCS có nhận thức sâu sắc về cơ quan sinh

dục cũng như trang bị kĩ lưỡng cho các em hành trang các biện pháp tránh thai.

Nhận thức được hậu quả của việc sinh con ngoài mong muốn sẽ giúp các em

có nhận thức đúng đắn về lối sống không lành mạnh và tìm cách tránh xa .

III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

3.1. Mục đích của đề tài

- Trang bị kiến thức đầy đủ về cơ quan sinh sản ở nam và nữ. Cung cấp đầy đủ

chi tiết các biện pháp tránh thai cả về kiến thức và cách sử dụng.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài:

- Phải làm cho học sinh nhận thức tốt và rõ ràng hơn về việc giáo dục giới tính

ở lứa tuổi vị thành niên. Bởi vì khi các em càng hiểu rõ về việc giáo dục giới tính

thì việc giáo dục giới tính mới mang tính hiệu quả thiết thực và xóa bỏ những suy

nghĩ sai lệch về việc giáo dục giới tính.

- Nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính không những ở trong gia

đình mà còn ở trường học và trong xã hội cũng là những môi trường để thực thi

việc giáo dục giới tính.

2/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



- Nêu lên nguyên nhân và tác hại khi trẻ vị thành niên thiếu kiến thức về giáo

dục giới tính.

IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:

- Đối tượng nghiên cứu, khảo sát, thực nghiệm là 48 học sinh lớp 9 năm học

2015- 2016.

- Phạm vi nghiên cứu là chương trình Sinh học 9

V. PHƯƠNG PHÁP, KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:

5.1. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp quan sát,

thuyết trình, trực quan…

5.2. Kế hoạch nghiên cứu:

- Thời gian nghiên cứu trong 1 năm học : Bắt đầu từ tháng 8 năm 2015 và

kết thúc là tháng 4 năm 2016.

- Kế hoạch nghiên cứu :

+ Tháng 8/2015, tôi nhận lớp và tiến hành điều tra cơ bản ban đầu, ra đề thi

khảo sát chất lượng đầu năm.

+ Từ tháng 9/2015 đến tháng 4/2016: Xây dựng và triển khai thực hiện các

biện pháp của đề tài. Qua kết quả các bài kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, kiểm tra

học kì, tiến hành thu thập số liệu, phân tích các sự việc có liên quan đến đề tài và

xác định các biện pháp tiếp theo cho phù hợp.

+ Tháng 4/2016, tôi kết thúc đề tài, xử lí các kết quả thu hoạch được và viết

SKKN.



3/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.

Hiểu một cách đầy đủ, vấn đề giáo dục giới tính bao gồm rất nhiều nội dung,

như sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ cá nhân, sự phát triển giới tính, tình cảm...

Để có được những kết quả khả quan, các chương trình giáo dục giới tính phải được

nghiên cứu kỹ lưỡng, diễn ra trong quá trình lâu dài và đây vẫn là vấn đề rất nhạy

cảm, tồn tại những quan điểm khác nhau.

Một số ý kiến cho rằng, nếu cung cấp cho học sinh những thông tin và giúp

chúng phòng ngừa thai cũng như các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ đẩy các

học sinh này vào hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Nhiều ý kiến khác "tẩy chay"

việc đưa giáo dục giới tính vào trường học, coi giáo dục giới tính là "con dao hai

lưỡi".

Trong sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì sự hiểu biết cơ bản về

giới tính của mỗi người có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là kiến thức không thể thiếu

để mỗi người tự bảo vệ sức khỏe của mình và của cộng đồng; biết quan hệ, ứng xử

với người khác phù hợp với chuẩn mực giới tính và đạo đức xã hội, đồng thời biết

bảo vệ hạnh phúc gia đình, duy trì nòi giống, phòng chống các bệnh xã hội…

Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), tuổi vị thành niên là giai đoạn từ 10 – 19

tuổi, nằm trong khoảng thời gian từ lúc dậy thì đến lúc trưởng thành. Ở nước ta có

50% dân số dưới 20 tuổi, trong đó 20% có độ tuổi từ 10-19, tức là khoảng 15 triệu

người thuộc lứa tuổi vị thành niên. (Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành

niên – Bộ giáo dục và đào tạo – ủy ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005,

tr.37)

Theo bộ y tế, tình hình nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên trong những năm

gần đây có chiều hướng gia tăng. Mỗi năm có khoảng 1,2-,1,4 triệu trường hợp nạo

phá thai, chiếm 20-25%. (Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ

giáo dục và đào tạo – ủy ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005, tr.34).

Tại Trung tâm Kế hoạch hóa gia đình TPHCM, mỗi ngày có hàng chục ca đến

làm thủ tục khám và xin bỏ thai. Theo thống kê, số lượng thai phụ dưới 18 tuổi đến

phá thai trung bình một năm khoảng 911 ca. So với những năm 1990, từ năm 2001

trở đi số trẻ vị thành niên đến phá thai ở đây đã tăng gấp 3 lần. (Báo Người lao

động 2003).



4/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



Bên cạnh đó, việc mắc các bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục tăng lên

nhanh chóng ở thanh thiếu niên. Theo ủy ban quốc gia phòng chống AIDS, tỉ lệ

người nhiễm HIV ở lứa tuổi 20-29 đã tăng từ 15% năm 1993 lên 62% vào cuối năm

2002 và số nhiễm HIV ở lứa tuổi vi thành niên chiếm 8,3% các trường hợp nhiễm.

(Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ giáo dục và đào tạo – ủy

ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005, tr.34).

Như vậy, việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, trong

đó có một bộ phận lớn là học sinh đang học tập ở trường THCS là vấn đề cần thiết

và cấp bách. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản nhằm cung cấp cho các em

những kiến thức, kỹ năng sống đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản, về tình bạn,

tình yêu… Đây là việc làm cần thiết bên cạnh việc giảng dạy văn hóa để góp phần

tạo ra một tương lai thật tươi sáng cho học sinh.

1.1 Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi vị thành niên

Vị Thành Niên (VTN) là người ở lứa tuổi từ 10 – 19. Năm 1998, trong tuyên

bố chung giữa Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

(UNICEF)và Quỹ Dân số liên hợp quốc (UNIFRA) đã thống nhất phân loại nam nữ

còn trẻ thành 3 loại như sau:

- Vị thành niên (Adolescent): 10 tuổi – 19 tuổi.

- Thanh niên (Youth): 15 tuổi – 24 tuổi.

- Người trẻ (yong people): 10 tuổi – 24 tuổi.

Với định nghĩa trên, VTN chiếm 20% dân số thế giới. Trong khi khái niệm

thanh niên khác nhau theo từng nền văn hóa thì toàn thế giới ngày càng nhất trí

rằng tuổi VTN là một giai đoạn khác biệt và quan trọng trong cuộc sống con người.

Trong nghiên cứu này thì chủ yếu chú yếu đến VTN ở lứa tuổi từ 11-14 tuổi

(đang học THCS). Đây là lứa tuổi đang và đã ở giai đoạn dậy thì, là giai đoạn thay

đổi một cách toàn diện về tâm sinh lý và tình cảm ở mỗi cá nhân.

1.1.1 Về thể chất

Thời kí dậy thì ở tuổi VTN trong giai đoạn này diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ về

thể chất như: sự thay đổi của cơ thể, phát triển và hoàn thiện về chiều cao, cân

nặng… Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ công bố trên tạp trí Nhi khoa

của Mỹ cho biết tuổi dậy thì của trẻ em gái ngày càng đến sớm hơn. Tuy nhiên ở

nước ta độ tuổi dậy thì của các em thường chậm hơn 1-3 năm so với thế giới. Các

em gái thường dậy thì vào khoảng 8-13 tuổi, bé trai khoảng 9 -14 tuổi (theo

http://bacsynhikhoa.weebly.com).

5/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



* Dậy thì ở bé gái

• Quá trình này thường bắt đầu khi các bé được 10,5 tuổi.

• Dấu hiệu đầu tiên là ngực phát triển. Ngực nhú lên thành những cục nhỏ

dưới núm vú, ở một hoặc cả hai bên. Những cục này có thể cứng và có kích thước

khác nhau. Thời điểm này trẻ thường bắt đầu cao nhanh.

• Sau khoảng 6 tháng, lông mu xuất hiện (mặc dù ở một số trẻ, mọc lông mu

lại là biểu hiện đầu tiên của dậy thì), rồi đến lông nách.

• Trong vài năm tiếp theo, ngực tiếp tục lớn lên, lông mu và cơ quan sinh dục

ngoài tăng trưởng dần dần, dẫn tới kỳ kinh nguyệt đầu tiên. Thay đổi này thường

xuất hiện vào 12,5 - 13 tuổi, khoảng 2 năm sau khi bắt đầu dậy thì.

• Cơ thể tiếp tục phát triển và toàn bộ quá trình dậy thì hoàn tất sau 3-4 năm,

với ngực, quầng vú và lông mu phát triển như ở người lớn.

• Trong giai đoạn dậy thì, các bé gái thường cao trung bình 7 - 8 cm/năm, và

đạt đỉnh điểm khi kỳ kinh đầu tiên xuất hiện. Trẻ thường dừng cao khoảng 2 năm

sau khi có kinh.

* Dậy thì ở bé trai

• Quá trình này thường bắt đầu muộn hơn ở con trai, trung bình là 11,5 - 12

tuổi.

• Dấu hiệu dậy thì đầu tiên là tăng kích thước tinh hoàn.

• Vài tháng sau, lông mu bắt đầu mọc.

• Lông mu, lông nách, tinh hoàn và dương vật tiếp tục phát triển.

• Nam đạt tốc độ tăng chiều cao tối đa chậm hơn nữ 2-3 năm. Hiện tượng này

thường bắt đầu bằng bàn tay và bàn chân to ra, rồi đến cánh tay và cẳng chân, thân

và ngực phát triển.

• Những thay đổi khác bao gồm giọng trầm hơn, cơ bắp to lên, có khả

năng cương cứng và xuất tinh (đặc biệt là xuất tinh tự nhiên, còn gọi là 'giấc mơ

ướt'). Ở một số em trai, ngực có thể phát triển.

• Những thay đổi trên vẫn tiếp tục, quá trình dậy thì hoàn thành sau 3-4 năm

với lông mu, tinh hoàn và dương vật đạt kích thước như ở người lớn. Tiếp theo

ngực và râu phát triển.

• Các bé trai đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất chậm hơn các bạn gái, thường là

khi lên 14 tuổi.

• Dậy thì ở cả hai giới đều liên quan tới ra mồ hôi nách, cơ thể có mùi, nổi

mụn trứng cá.

6/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



1.1.2. Về tâm lý

Cùng với sự phát triển về sinh lý, thể chất của tuổi dậy thì, sự biến đổi về tâm

lí cũng diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Xuất hiện nhiều cảm xúc về giới tính

được bộc lộ ra mà trước đây chỉ ở dạng tiềm năng. Xuất hiện nhiều những thắc

mắc, lo lắng băn khoăn trước sự biến đổi của cơ thể.

Trong thời kì này, do hệ thống tuần hoàn máu nảy sinh hiện tượng mâu thuẫn

tạm thời, cụ thể là tim của các em phát triển mạnh nhưng mạch phát triển chậm hơn

gây trở ngại khiến cho tim hoạt động không đều. Hậu quả làm cho các em gái trở

nên đa cảm, hay căng thẳng mệt mỏi đôi lúc hoa mắt chóng mặt; dễ trở nên cáu gắt,

cảm xúc tiêu cực….

Tính cách đặc trưng ở lứa tuổi VTN là tính trẻ con và tính người lớn pha trộnmột người lớn chưa đủ chin chắn, thích bắt chước người lớn nhưng lại không có

trách nhiệm của người lớn, chuẩn bị làm người lớn nhưng chống đối và bỡn cợt cả

người lớn. Chính vì tính cách đó mà VTN luôn muốn thử sức, luôn muốn tự khẳng

định, thích mạo hiểm nhưng một khi gặp khó khăn, đau buồn hay thất bại lại chưa

đủ bản lĩnh để lí giải, chống chọi và vượt qua, cho nên nhiều khi rơi vào trạng thái

khủng hoảng tâm lí, mất cân bằng, không làm chủ được bản thân…

Những nét cơ bản về tâm sinh lí tuổi VTN sẽ giúp chúng ta nhận biết rõ hơn

về những thay đổi của VTN nói chung và học sinh THCS nói riêng. Đặc biệt, đối

với đề tài nghiên cứu này, việc hiểu biết rõ ràng và khoa học là một điều quan trọng

và cần thiết cho việc phân tích các kết quả nghiên cứu sau này.

1.2. Nhận thức của học sinh trường THCS Đại Hùng về GDGT

Khi hỏi 197 học sinh trường THCS Đại Hùng có biết về GDGT không thì

98,4% (195/197) học sinh trả lời là có. Đây là điều có thể lí giải được vì chương

trình GDGT đã được lồng ghép vào môn Sinh học và Giáo dục công dân trong nhà

trường THCS. Nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền về

giáo dục giới tính. Mặc dù nội dung lồng ghép khá ít nhưng học sinh đã biết, đã

nghe và đã được học về GDGT. Ngoài ra, hiện nay cụm từ GDGT đã được đề cập

rất nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: sách báo, đài, tivi,

internet…

1.3. Tìm hiểu về cơ quan sinh sản

1.3.1. Đặc điểm, cấu tạo bộ máy sinh dục Nam:

* Dương vật

7/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



Ngoài cùng là da, ở phần đầu dương vật có một đoạn da mỏng bảo vệ, gọi là

bao quy đầu. Bao quy đầu của bé trai hẹp, nhưng nó giãn ra khi tới tuổi dậy thì.

Giữa dương vật có một đường ống gọi là niệu đạo, cả nước tiểu và tinh dịch

đều thoát ra khỏi cơ thể bằng đường này, nhưng không bao giờ thoát ra cùng một

lúc. Khi tinh dịch đang được phóng ra khỏi cơ thể thì lối thoát dành cho nước tiểu

bị đóng lại nhờ một chiếc van "thông minh" và ngược lại, khi nước tiểu đi ra ngoài

thì phần đóng sẽ quay lại phía đường ra của tinh dịch.

Lúc bình thường khi dương vật mềm ở thể hang, các hốc máu có hình chữ V,

H, X, Y. Khi dương vật bị kích thích bởi tác nhân cơ học (sờ, nắn, đụng chạm tại

chỗ) hoặc bởi các yếu tố tâm lý (nghĩ, nghe, nhìn) thì sợi cơ trơn của các tiểu động

mạch co lại, kéo các vòng chun giãn ra làm cho máu từ các tiểu động mạch tràn vào

các hốc máu do vậy dương vật to, dài ra và cứng.



* Tinh hoàn

Tinh hoàn là một cơ quan nằm ngoài ổ bụng. Mỗi cơ thể nam có hai tinh hoàn,

có cấu tạo hình trứng, kích thước 4,5 x 2,5 cm. Ở người lớn thể tích của tinh hoàn

trung bình là 4,8±18,6 ml. Chúng được bảo vệ ở bên trong một chiếc túi nhỏ bằng

8/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



da chùng và nhăn nheo, được treo ở gốc dương vật gọi là bìu (hay bao tinh hoàn).

Bìu có tính co giãn, để duy trì nhiệt độ thích hợp với tinh hoàn, nếu gặp nhiệt độ

nóng thì bìu hạ xuống xa cơ thể cho mát và khi lạnh thì co lên cho ấm.

Cũng giống như dương vật, tinh hoàn của mỗi người mỗi khác, có thể lớn hay

nhỏ hơn kích thước trung bình một chút hoặc có thể ở người này thì sa xuống thấp

còn của người kia lại dâng lên cao. Thường thì hai bên tinh hoàn không đều nhau,

bên cao bên thấp hoặc bên lớn bên nhỏ hơn một chút. Điều này hoàn toàn bình

thường, không ảnh hưởng gì đến chức năng của hai tinh hoàn cả.

Trong mỗi tinh hoàn được chia thành nhiều thuỳ bằng các vách xơ, trong mỗi

thuỳ lại có nhiều ống nhỏ ngoằn nghèo được gọi là ống sinh tinh. Mỗi tinh hoàn có

khoảng 900 ống sinh tinh, mỗi ống dài 5m, tiếp nối với ống sinh tinh là ống mào

tinh hoàn. Ống này có chiều dài 6m và được tiếp nối bởi ống dấn tinh.

Tinh hoàn được coi là "nhà máy" sản xuất ra tinh trùng. Mỗi ngày, hai tinh

hoàn của một người đàn ông trẻ tuổi có khả năng sản sinh khoảng 120 triệu tinh

trùng. Một lượng nhỏ được dự trữ trong mào tinh hoàn nhưng phần lớn tinh trùng

được dự trữ ở ống dẫn tinh. Tại nơi dự trữ chúng có thể duy trì khả năng thụ tinh

trong khoảng thời gian tối thiểu là một tháng.

Bên cạnh đó, tinh hoàn còn có một chức năng quan trọng khác là bài tiết

hormon sinh dục nam (chủ yếu là Testosteron), quyết định các đặc tính của giới

nam và điều khiển hoạt động của hệ sinh dục.

1.3.2. Đặc điểm, cấu tạo bộ máy sinh dục Nữ.

+ Cấu tạo bên ngoài bao gồm:

* Âm hộ

Còn gọi là cửa mình, là phần ngoài của bộ phận sinh dục nữ gầm có âm vật và

đôi nếp gấp của da gọi là âm môi (gồm môi lớn và môi nhỏ). Âm hộ nằm ngay dưới

xương mu, được bao phủ bằng lông ở phía trên và xung quanh.

* Âm vật:

Là một phần của âm hộ nằm ngay dưới xương mu, phía trong các nếp môi.

Nếu so sanh về mặt phôi học thì âm vật cũng giống như đầu dương vật của nam

giới. Do đó âm vật đóng vai trò cơ quan điều khiển cảm giác, là bộ phận có thể

cương lên và thu nhỏ, rất nhạy cảm do hệ thần kinh mà mạch máu phong phú. Khi

có kích thích tình dục, âm vật cương lên và gây cảm giác cực khoái. Lúc bình

thường chúng ta sẽ không nhìn thấy âm vật, vì nó khuất sau nếp da. Khi người phụ

nữ bị kích thích do tư tưởng hoặc do tiếp cận xúc giác, máu sẽ dồn đến làm các thể

nang của âm vật phồng lên. Khi đó, âm vật sẽ nhô ra khỏi nếp da gấp.

9/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



* Lỗ niệu đạo:

Khác với nam giới, ở nữ thì âm đạo và niệu đạo không chung một đường như

là nam giới. Lỗ niệu đạo là nơi bài tiết nước tiểu, nó nằm ngay phía dưới âm vật và

phía trên cửa âm đạo. Vì ở gần âm đạo nên người phụ nữ khi bị viêm nhiễm âm đạo

thường làm lây nhiễm vi khuẩn lên đường tiết niệu qua lỗ niệu đạo.

* Môi lớn, môi nhỏ

Là một thành phần của âm hộ. Âm môi có nhiệm vụ che trở lỗ niệu đạo và âm

đạo. Âm môi gồm hai môi lớn và môi nhỏ. Cặp môi ngoài gọi là môi lớn, là hai nếp

thịt có tuyến mồ hôi và lông tương tự như trên khi vực mu, dài khoảng 7 đến 9

phân.

Cặp môi trong gọi là môi nhỏ, ngắn và nhỏ hơn nằm song song với hai môi

lớn, không có lông.

Hai môi nhỏ được cấu tạo bởi mô liên kết, các mô này một phần có cấu tạo

thể hang. Giữa hai môi nhỏ có một khoảng trống ở giữa gọi là tiền đình âm đạo.

Ngay phía dưới âm vật là lỗ niệu đạo, đường bài tiết nước tiểu. Miệng ống thoát

nước tiểu nằm giữa âm vật và âm đạo.

+ Cấu tạo bên trong bộ phận sinh dục nữ:

* Âm đạo:

Âm đạo là một phần của cơ quan sinh dục nữ, có hình ống cấu tạo bằng cơ,

nơi nối cổ tử cung với bộ phận sinh dục ngoài. Âm đạo dài từ 7 đến 10 cm, thành

sau hơi dài hơn thành trước cừng vài cm, bình thường nó là một ống hơi dẹp, bề

mặt trong thành cơ có nhiều nếp gấp và nhiều mạch máu. Các thành cơ thường áp

vào nhau trừ lúc giao hợp và sinh con, khi đó thành âm đạo có thể giãn nở rộng để

đứa bé có thể đi qua. Âm đạo chị ảnh hưởng của các nội tiết tố nữ nên thường ẩm,

do các chất dịch tiết ra từ cổ tử cung và buồng tử cung. Nó còn là nơi chứa dương

vật khi giao hợp và dẫn máu kinh nguyệt ra ngoài khi hành kinh.

Cửa vào âm đạo ở phía dưới lỗ niệu đạo ( tức đường bài tiết của nước tiểu, nó

trực tiếp thông với bọng đái) khoảng chừng 2 cm, được che chắn bởi màng trinh.

* Cổ tử cung:

Là bộ phận giống như một cái nút chai tròn hình nấm với một lỗ tròn ở giữa,

ăn thông với bên trong tử cung. Nó được xem như một nơi chống mọi tác nhân bên

ngoài xâm nhập vào tử cung. Có nhiều trường hợp tinh trùng không qua được cổ tử

cung dẫn đến tình trạng vô sinh. Buồng tử cung hoàn toàn vô khuẩn là nơi trú ngụ

của bào thai từ lúc còn trong thời kỳ trứng thụ tinh cho đến ngày ra đời.

10/34



Vận dụng kiến thức về cơ quan sinh sản vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai cho học sinh khối 9



Lỗ trong và lỗ ngoài tử cung được nối với nhau tạo thành ống cổ tử cung, hai

lỗ cổ tử cung này trong một chu kỳ kinh nguyệt sẽ có hai lần mở ra: một là thời kỳ

kinh nguyệt của người phụ nữ để máu kinh có thể thoát ra ngoài. Lần thứ hai là vào

khoảng thời gian trứng rụng là giữ chu kỳ kinh để đón tinh trùng và tạo điều kiện

tốt nhất cho tinh trùng có thể bơi sâu vào bên trong.

* Tử cung:

Là một bộ phận có hình trái lê lộn ngược, tiếp giáp với âm đạo, nằm giữa bọng

đái và ruột già. Phần rộng ở trên mở vào hai vòi trứng, phần thấp và hẹp hơn ở dưới

mở vào âm đạo bằng cổ tử cung

Tử cung được tạo thành bởi lớp cơ trơn dầy, bề mặt bên trong tử cung được

bao phủ bởi một lớp niêm mạc, có rất nhiều mạch máu và tuyến. Màng bụng bao

phủ một phần mặt ngoài của tử cung. Tử cung được dây chằng cố định vị trí, đi

theo dây chằng là những mạch máu nuôi tử cung. Đây là nơi để trứng thụ tinh đến

làm tổ và phát triển cho tới khi thai trưởng thành.

Hình dáng tử cung thay đổi tùy theo các giai đoạn phát triển của người phụ nữ,

theo chu kỳ kinh nguyệt và tình trạng thai nghén.

* Vòi trứng:

Là ống dẫn từ tử cung đến buồng trứng, làm đường đi của trứng và tinh trùng

và cũng chính là nơi để trứng thụ tinh. Vòi trứng dài khoảng 7,5 cm, một đầu mở

tương đối hẹp vào tử cung, đầu kia mở rộng với các tua (loa vòi) ôm sát buồng

trứng để hứng bất kỳ trứng nào rụng. Vách của vòi trứng được lót bởi lớp tế bào có

lông chuyển động được, chúng có nhiệm vụ rung chuyển thường xuyên theo một

hướng nhất định để đẩy chất dịch nhầy trong đó có trứng di chuyển về phía tử cung.

* Buồng trứng:

Là cơ quan đôi nằm hai bên tử cung ngay dưới loa vòi. Mỗi buồng trứng dài

chừng 3 cm, rộng 2 cm, chứa rất nhiều nang trứng nơi nang trứng phát triển. Buồng

trứng giữ nhiệm vụ tương đương với tinh hoàn của đàn ông. Buồng trứng có nhiệm

vụ sản xuất trứng, ngoài ra, buồng trứng còn là một cơ quan sản sinh nội tiết tố nữ

estrogen và progesterone. Ở bé gái trước tuổi dậy thì, buồng trứng nhẵn bóng, sau

tuổi dậy thì bề mặt trở nên xù xì. Mỗi tháng có một nang trứng lớn lên và đến giữ

chu kỳ nang này sẽ vỡ và phóng thích trứng vào vòi trứng mà tạo thành sẹo. Về sau

tới tuổi mãn kinh, buồng trứng sẽ nhẵn bóng trở lại.

Trong khoảng tuổi từ 13 – 45, là khoảng thời gian nữ giới có thể sinh nở.

Trong buồng trứng, cứ cách một thời gian nhất định, tế bào trứng trưởng thành,

rụng và sẵn sàng thụ tinh. Việc tế bào trứng luân phiên nhau trưởng thành diễn ra

11/34



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

×