1. Trang chủ >
  2. Khoa Học Tự Nhiên >
  3. Môi trường >

II. Thạch quyển và các dạng địa hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 71 trang )


2. Địa hình

2.1. Khái niệm

Địa hình là hình dạng bề mặt Trái đất nói chung hay của một khu vực nói

riêng. Địa hình được phân biệt bởi các yếu tố địa hình. Các yếu tố địa hình được

đặc trưng bằng hình thái, trắc lượng hình thái, nguồn gốc và tuổi.

- Hình thái và trắc lượng hình thái

Hình thái: là dạng bề ngoài của các yếu tố địa hình, nó có thể là dương (lồi)

như một quả núi hay âm (lõm) như một bồn địa, tròn như đỉnh một quả đồi hay

nhọn như đỉnh các núi đá, có thể kín như một lòng chảo hay hở như một thung

lũng sông hướng về phía biển.

Trắc lượng hình thái: là hình thái biểu thị bằng các kích thước chính xác

của các yếu tố địa hình. Nó được biểu thị bằng các yếu tố định lượng như: diện

tích, độ dài, độ cao tuyệt đối, độ sâu trung bình.

- Nguồn gốc hình thành địa hình

Địa hình trên bề mặt Trái đất luôn biến đổi một mặt do những lực có nguồn

gốc ở trong lòng Trái đất sinh ra (nội lực), mặt khác do những lực ở bên ngoài Trái

đất sinh ra (ngoại lực).

Nội lực là lực được sinh ra ở bên trong Trái đất.

Nguyên nhân chủ yếu sinh ra nội lực là các nguồn năng lượng trong lòng

Trái đất như: năng lượng của sự phân huỷ các chất phóng xạ, sự chuyển dịch và

sắp xếp lại vật chất cấu tạo Trái đất theo trọng lực, sự ma sát vật chất.

Ngoại lực là những lực được sinh ra ở bên ngoài trên bề mặt Trái đất như

các nguồn năng lượng của gió, mưa, nước chảy, băng, sóng biển.

Nguyên nhân chủ yếu sinh ra ngoại lực là do nguồn năng lượng bức xạ của

Mặt trời.

Mối quan hệ của hai quá trình: các quá trình nội lực và ngoại lực xảy ra

đồng thời trên bề mặt địa hình, nội lực có xu hướng tăng sự gồ ghề, còn ngoại lực

có xu hướng giảm sự gồ ghề ấy. Mặc dù đối lập nhau nhưng quá trình nội lực và



ngoại lực vẫn ảnh hưởng qua lại lẫn nhau gọi là mâu thuẫn thống nhất. Nội lực

đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành các yếu tố địa hình lớn. Ngoại lực đóng

vai trò chủ yếu trong việc hình thành các yếu tố địa hình nhỏ.

- Tuổi địa hình chỉ mức độ cổ hay trẻ của địa hình.

2.2. Các dạng địa hình chính

2.2.1. Địa hình kiến tạo

Qúa trình nội sinh đóng vai trò chủ yếu trong sự hình thành địa hình kiến

tạo. Đặc điểm cơ bản của địa hình này là có sự tương ứng rất lớn giữa địa hình với

cấu trúc địa chất và thường có cấu trúc rất lớn: miền núi, miền đồng bằng rộng lớn

tương ứng với miền địa máng, miền nền.

2.2.2. Địa hình lục địa

Dựa vào độ cao trên lục địa có thể chia ra các loại địa hình: đồng bằng, đồi,

cao nguyên, miền núi.

2.2.2.1. Địa hình miền núi

Là một dạng địa hình nhô cao rõ rệt trên mặt đất. Độ cao của núi thường

trên 500m so với mực nước biển, có đỉnh nhọn, sườn dốc. Chỗ tiếp giáp giữa núi

và mặt đất bằng phẳng ở xung quanh là chân núi. Sườn núi càng dốc thì đường

chân núi biểu hiện càng rõ.

Dựa vào nguồn gốc và quá trình hình thành người ta chia địa hình núi ra

làm 4 nhóm:

- Núi trẻ:

Là núi có cấu trúc địa chất nham thạch được hình thành trong các thời kỳ

địa chất gần đây, chủ yếu thuộc Đại tân sinh như : núi An-pơ, Hy-ma-ly-a, Andes…

Đặc điểm: có độ cao tuyệt đối lớn, hình dáng núi còn sắc sảo với các đỉnh

cao và nhọn. Các núi trẻ hiện nay vẫn còn được tiếp tục nâng cao (thường chỉ vài

cm trong 100 năm).

- Núi già:



Là núi có cấu trúc địa chất, nham thạch phần lớn được hình thành từ thời cổ

đại như: núi Uran, A-pa-lát…

Đặc điểm: các khối núi này đã bị bào mòn, độ cao tuyệt đối nhỏ và có hình

dáng mềm mại.

- Núi tái sinh:

Là các miền núi được hình thành do việc nâng lên với biên độ lớn ở những

miền núi cổ đã qua sang bằng như: Trường Sơn Bắc (Việt Nam), Thiên Sơn, Pamia (Trung Quốc).

Đặc điểm: núi tái sinh phụ thuộc vào số lượng các đứt gãy và sự di chuyển

tương đối của các tản.

- Núi lửa:

Ở những nơi vỏ Trái đất bị rạn nứt, vật chất nóng chảy ở dưới sâu (mắc-ma)

phun trào ra ngoài mặt đất, tạo thành núi lửa.

Núi lửa có dạng khối hình nón, đỉnh có miệng trũng, ở đó thường xuyên

hoặc định kỳ phun ra các chất khí, hơi nước, đá tảng, tro hoặc dung nham nóng

chảy. Đôi khi các chất khí và hơi nước cũng bốc ra từ các khe nứt ở sườn núi tạo

nên các miệng phụ của núi lửa.

Núi lửa hiện nay được phân ra 2 loại: núi lửa hoạt động (còn phun trong

thời gian gần đây) và núi lửa tắt (thôi phun trong thời gian dài).

Trên Trái đất có khoảng 500 núi lửa hoạt động, vùng ven bờ lục địa quanh

Thái Bình Dương có gần 300 núi lửa còn hoạt động, vì vậy người ta gọi vùng này

là "vành đai lửa Thái Bình Dương".

2.2.2.2. Địa hình đồng bằng (bình nguyên)

Đồng bằng là vùng đất rộng có bề mặt tương đối bằng phẳng hoặc gợn

sóng. Độ cao trên mực nước biển nói chung là thấp dưới 200m. Trong miền đồng

bằng cũng có thể có núi nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Về nguyên nhân hình

thành người ta chia ra làm hai dạng đồng bằng chính.



Đồng bằng mặt lớp: do phù sa các sông hay biển bồi tụ thường bằng phẳng,

thấp thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như: đồng bằng A-ma-dôn, đồng bằng

sông Cửu Long, đồng bằng sông Trường Giang.

Đồng bằng máng nền: chiếm 30% diện tích các đồng bằng. Đồng bằng

máng nền có bề mặt hơi lượn sóng do xâm thực có lựa chọn vì thế đồng bằng này

còn có tên gọi là bán bìmh nguyên hay gọi khác hơn là đồng bằng bóc mòn. Dựa

vào nhân tố gây ra bóc mòn, các đồng bằng này được chia thành đồng bằng mài

mòn do biển hay đồng bằng nạo mòn do băng hay là đồng bằng thổi mòn do gió

như đồng bằng Bắc Âu, Đông Âu.

2.2.2.3. Cao nguyên

Cao nguyên là dạng địa hình có độ cao tuyệt đối trên 500m, có bề mặt

tương đối bằng phẳng hoặc gợn sóng, nhưng có sườn dốc nhiều khi dựng đứng

thành vách so với vùng đất xung quanh. Về nguồn gốc, cao nguyên có thể hình

thành do tác động bào mòn, san bằng lâu dài của các loại địa hình hoặc do bị một

lớp đá phun trào dày như đá ba-zan phủ lên trên mặt. Ở nước ta Mộc Châu là cao

nguyên bóc mòn còn Bảo Lộc là cao nguyên bề mặt có phủ đá ba-zan.

2.2.2.4. Đồi

Giữa vùng miền núi và đồng bằng có một vùng chuyển tiếp gọi là đồi. Đồi

là một dạng địa hình nhô cao, có đỉnh tròn, sườn thoải nhưng độ cao tương đối của

nó thường không quá 200m. Đồi ít khi đứng riêng lẻ mà thường hay tập trung

thành vùng.

2.2.3. Địa hình bóc mòn - bồi tụ

Qúa trình ngoại sinh đóng vai trò chủ yếu trong sự hình thành địa hình bóc

mòn - bồi tụ phát triển trên các địa hình kiến tạo và đem lại cho những yếu tố địa

hình kiến tạo những dáng vẻ riêng biệt. Dựa vào các nhân tố hình thành có thể

chia ra các dạng địa hình sau:



2.2.3.1. Địa hình do dòng chảy tạo thành

Địa hình do dòng chảy tạo thành là dạng địa hình phổ biến nhất trên bề mặt

Trái đất. Địa hình do dòng chảy tạo thành rất đa dạng có thể lớn như các thung

lũng sông, nhỏ như các mương sói. Các dạng địa hình này được hình thành do tác

dụng phá huỷ và bồi tụ của dòng nước. Tác dụng phá huỷ của dòng nước gọi là tác

dụng xâm thực. Xâm thực của dòng nước gồm xâm thực sâu (đào lòng) và xâm

thực ngang. Cả hai quá trình này diễn ra đồng thời nhưng xâm thực sâu chiếm ưu

thế trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển dòng sông nhất là khu vực thượng

nguồn thường tạo thành các thung lũng chữ V: đào sâu lòng, vách dốc đứng. Xâm

thực ngang chiếm ưu thế ở khu vực trung và hạ lưu. Tại đây sông ngừng đào sâu

lòng, đáy sông mở rộng, tạo thành các thung lũng hình chữ U. Xâm thực ngang

xảy ra làm cho con sông đáng ra chảy thẳng nay trở nên ngoằn ngoèo. Những đoạn

cong ấy của thung lũng sông gọi là khúc uốn của sông.

Các sản phẩm bị xâm thực được mang đi bằng con đường cơ học hay hoà

tan. Đó là tác dụng vận chuyển của dòng nước. Tại những nơi tốc độ dòng nước

nhỏ đi hay lượng nước giảm xuống thì ở đó xảy ra các quá trình bồi tụ. Qúa trình

này có thể xảy ra trên suốt dòng sông, nhưng chủ yếu vẫn là ở bộ phận hạ lưu và

cửa sông. Tại đây, trong những điều kiện thuận lợi (phù sa của sông lớn, khu vực

biển gần cửa sông nông, sóng biển yếu, thuỷ triều nhỏ…) sẽ hình thành các châu

thổ, đồng bằng.

Dựa vào tính chất kéo dài của vận động dòng nước ta có thể chia địa hình

nước chảy thành địa hình các dòng nước thường xuyên và các dòng nước tạm thời.

- Các dòng chảy tạm thời (là dòng chảy chỉ hình thành sau cơn mưa và sau

khi tuyết tan) cũng tạo nên các dạng địa hình khác nhau.

+ Ở những khu vực cấu tạo bằng đá vụn bở, không có lớp phủ thực vật,

mưa nhiều với cường độ lớn và sườn dốc thường tạo thành khe rãnh, mương sói.

Khe rãnh, mương sói phát triển với cường độ và mật độ lớn tạo thành điạ hình xấu.



+ Dòng chảy tạm thời còn tạo thành nón phóng vật. Nón phóng vật là dạng

địa hình bồi tụ, thường nằm dưới chân sườn núi, đồi có hình nửa cái nón, vật liệu

ở đỉnh thô, càng xuống dưới chân vật liệu càng nhỏ.

- Các dòng chảy thường xuyên khi các rãnh lõm khắc sâu xuống nước

ngầm, khi đó nước chảy ra thường xuyên thành suối, ngòi, sông. Sông, suối có tác

dụng xâm thực vận chuyển và bồi tụ để tạo thành thung lũng sông và đồng bằng

châu thổ.

+ Thung lũng sông là dạng địa hình âm kéo dài do xâm thực của dòng nước

thường xuyên tạo thành có hướng dốc phù hợp với hướng dòng chảy của dòng

sông.

+ Tam giác châu được hình thành ở mực cơ sở của các sông, phù sa của

sông ra đến biển thì lắng đọng lại sẽ tạo thành tam giác châu.

2.2.3.2. Các quá trình sườn

Theo lý thuyết, sườn là tất cả những mặt nghiêng có độ dốc trên 0 o. Vì vậy

có thể nói quá trình sườn và các dạng địa hình do nó tạo thành phổ biến ở nhiều

nơi. Đặc trưng nhất của quá trình sườn là sự di chuyển vật liệu theo khối, di

chuyển vật liệu trực tiếp dưới tác động của trọng lực không thông qua môi trường

trung gian nước sông, băng hà, gió, nước biển… Dựa vào tốc độ di chuyển quá

trình sườn được chia làm hai kiểu:

Di chuyển nhanh bao gồm đá lở, đất trượt, bùn chảy, thường xảy ra chớp

nhoáng trong khoảnh khắc.

Di chuyển chậm có đặc điểm xảy ra chậm, khó nhận biết nhưng rất phổ

biến, bao gồm: trượt ngắn, xói mòn, sự va đập của giọt nước mưa, rửa tràn trên

mặt.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển trên sườn như độ dốc của

sườn, tính gắn kết của đá cấu tạo sườn, tính ma sát và đặc điểm lớp phủ thực vật.



2.2.3.3. Địa hình cac-xtơ

Định nghĩa: trên bề mặt Trái đất có những miền được bao phủ bởi các nham

thạch dễ hoà tan trong nước như: đá vôi, thạch cao…. Các miền đó do ảnh hưởng

của nước ngầm và nước trên mặt tạo thành những dạng địa hình rất độc đáo mà từ

lâu con người gọi là miền cac-xtơ. Sự xuất hiện và phát triển địa hình cac-xtơ gồm

ba quá trình:

Qúa trình ăn mòn: là sự hoà tan gây ra do nước và các đi-ô-xit các-bon ở

trong nước.

Quá trình xâm thực: là sự phá huỷ bằng con đường cơ giới của nước.

Qúa trình phong hoá sinh hoá học: đó là sự phân huỷ đá bằng những axit

hữu cơ liên quan đến các hoạt động sinh sống của sinh vật như sự mọc cây, rụng

lá.

Địa hình cac-xtơ rất phổ biến trên thế giới và Việt Nam với nhiều dạng địa

hình như:

- Địa hình Cac-xtơ trên bề mặt là những dạng địa hình nhìn thấy được bên

ngoài gồm các dạng:

+ Địa hình âm

Ca-ren là dạng địa hình âm nhỏ được hình thành do quá trình ăn mòn xảy ra

trên những khe nứt hay trên những chỗ trũng xuống của bề mặt địa hình. Thường

hay gặp ca-ren dưới hình thức những rãnh, giữa chúng là những mào đá sắc nhọn

mà nhân dân ta thường gọi là đá tai mèo.

Phễu cac-xtơ, lũng cac-xtơ là dạng địa hình có sườn dốc, đáy của chúng có

những hố hút nước, đây là những khoảng rỗng nhỏ, dạng ống, thẳng đứng hay

nghiêng.

Cánh đồng Cac-xtơ là dạng địa hình âm lớn nhất. Trên mặt cánh đồng còn

đầy những rảnh đá, giếng đứng, khe cạn.

+ Địa hình cac-xtơ tàn tích là những dạng địa hình dương còn sót lại sau

quá trình mở rộng và nối liền các dạng địa hình cac-xtơ âm. Cac-xtơ tàn tích bao

gồm : tháp cac-xtơ, nón và vòm cac-xtơ.



- Địa hình cac-xtơ ngầm: là dạng địa hình rất đặc biệt nước xâm nhập vào

các lớp đá cac-xtơ bằng nhiều con đường khác nhau gây ra tác động phá huỷ (ăn

mòn và xâm thực) cũng như bồi tụ (kết tủa, trầm lắng vật liệu bằng con đường cơ

học) kết quả là hình thành các hang động.

Hang động là những khoảng rổng, có kích thước to, nhỏ khác nhau, hình

thành trong các vùng núi đá vôi, do tác động hoà tan chất vôi của nước ngầm hoặc

của nước thấm qua các khe nứt của đá, nhưng có chứa một lượng axit cac-bo-nic

cao. Trong hang động đá vôi thường có các loại thạch nhũ có hình thù khác nhau

như: măng đá, vú đá, cột đá.

2.2.3.4. Địa hình có các nguồn gốc tạo thành khác

Ngoài những nhân tố trên, địa hình còn có thể được hình thành do tác động

của gió, băng hà hay nước biển… nhưng những dạng địa hình đó đều được hình

thành ở những khu vực có những điều kiện tự nhiên nhất định.

- Địa hình do gió thường hay gặp những vùng khí hậu khô hạn, hoang mạc

và bán hoang mạc nơi không có lớp phủ thực vật, đất đá khô, gió phát huy vai trò

mạnh mẽ. Thường hay gặp là các dạng địa hình thổi mòn, các cồn cát, cánh đồng

cát…

- Địa hình băng hà chỉ quan sát thấy ở các vùng vĩ độ cao hay núi cao, nơi

nhiệt độ luôn luôn thấp, tuyết tích tụ lâu ngày biến đổi thành băng. Thường hay

gặp là các dạng địa hình do băng hà hình thành như: thung lũng băng, những cao

nguyên băng hà …

2.2.4. Địa hình miền bờ biển

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển địa hình bờ biển như đá

cấu tạo bờ, cấu trúc địa chất, khí hậu và nhất là tác động của biển (sức công phá,

thuỷ triều, đặc tính lí hoá của nước biển…). Địa hình bờ biển phân ra thành hai

dạng chính :

Các dạng địa hình mài mòn: được hình thành chủ yếu do sự phá huỷ của

sóng. Khi sóng vỗ bờ, bản thân nó có một sức va đập lớn, lại cộng thêm sức phá



huỷ của các tảng đá vật liệu do nó mang theo, làm cho bờ bị ăn lõm tạo thành hàm

ếch sóng vỗ. Hàm ếch ngày càng ăn sâu, đến một mức độ nhất định thì cả phần đá

ở trên bị sập xuống. Vật liệu phá huỷ bị lôi ra xa bờ và trầm lắng lại dưới đáy tạo

thành nền mài mòn. Địa hình mài mòn thường đặc trưng cho những khu vực có bờ

cấu tạo bằng đá cứng, cao và dốc.

Các dạng địa hình bồi tụ: nếu bờ biển thoải, cấu tạo bằng các vật liệu vụn

thì sẽ xảy ra quá trình bồi tụ. Khi sóng đánh vào bờ sẽ phá huỷ bờ và các vật liệu

bị lôi cuốn theo hướng ngang với bờ hay dọc theo bờ tuỳ theo năng lượng của

sóng, hướng sóng đánh vào bờ, độ sâu của khu vực …Khi sóng mất dần năng

lượng thì sức phá huỷ và vận chuyển giảm, quá trình bồi tụ bắt đầu, hình thành các

cồn cát duyên hải, các đầm phá, bãi nối liền đảo… Dạng địa hình bồi tụ thường

tạo ra các kiểu bờ thẳng, đơn giản, có mũi đất nhọn. Nơi đây thuận tiện cho việc

phát triển nghề muối, nuôi thuỷ sản hoặc tổ chức thành các bãi tắm, khu du lịch

nghỉ mát, an dưỡng.

III. Khí quyển

1. Khí quyển

1.1. Khái niệm

Khí quyển là lớp không khí bao quanh Trái đất.

Khí quyển có độ dày hơn 20000 km. Khí quyển có tác dụng bảo vệ Trái đất,

duy trì môi trường sống và tạo điều kiện cho sự phát triển của sinh vật. Thông qua

các quá trình trao đổi vật chất và năng lượng khí quyển thường xuyên có tác động

đến mọi hoạt động trên Trái đất.

1.2. Thành phần của không khí

Khí quyển bao gồm hỗn hợp các chất khí có thành phần hầu như không đổi,

trong đó chủ yếu là khí ni-tơ chiếm 78,1% và khí ôxy chiếm 20,9% thể tích. Các

chất khí còn lại chiếm 1%. Ngoài ra, trong khí quyển còn lẫn nhiều tạp chất như:

hơi nước, khí CO2, bụi.



1.3. Cấu trúc khí quyển

Căn cứ vào những đặc tính khác nhau của lớp vỏ khí, người ta chia khí

quyển thành năm tầng.

1.3.1. Tầng đối lưu

Tiếp giáp với bề mặt Trái đất là tầng đối lưu, là nơi diễn ra mọi hiện tượng

khí tượng. Tầng đối lưu có độ dày khác nhau giữa các khu vực. Ở xích đạo dày

khoảng 16 km nhưng ở cực chỉ khoảng 8 km, 80 % khối lượng không khí của khí

quyển tập trung ở tầng đối lưu. Ở tầng này không khí chủ yếu chuyển động theo

chiều thẳng đứng. Hơi nước tập trung ở dưới thấp khoảng 3/4 khối lượng hơi nước

nằm từ 4 km trở xuống. Nhiệt của Trái đất hấp thụ từ Mặt trời rồi toả vào không

khí được hơi nước giữ lại tới 60%. Ban đêm mặt đất sẽ lạnh đi nhiều nếu không có

hơi nước. Khí CO2 chỉ chiếm 0,03% trong thành phần khí quyển, nhưng chúng đã

giữ lại 18% lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất toả vào không gian. Không có CO 2 thì

nhiệt độ trung bình Trái đất giảm đi, tuy nhiên nếu tỷ lệ CO 2 tăng cao, nhiệt độ

Trái đất nóng lên sẽ gây tác hại cho sức khỏe con người.

Trong tầng đối lưu còn có các phần tử vật chất rắn như: tro, bụi, các loại

muối, các vi sinh vật. Các phần tử này hấp thụ một phần bức xạ Mặt trời, nhờ đó

mà ban ngày mặt đất đỡ nóng, ban đêm đỡ lạnh, đồng thời chúng còn là hạt nhân

ngưng tụ để hơi nước đọng lại xung quanh tạo thành sương mù, mây mưa. Vì vậy

các phần tử vật chất rắn này cũng là nguyên nhân làm cho nhiệt độ ở tầng đối lưu

giảm theo độ cao 0,5 - 0,6oC/100m (ở đỉnh tầng đối lưu nhiệt độ xuống tới -80oC).

Đỉnh tầng đối lưu: là lớp trung gian giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu có

độ dày khoảng 1 km. Điểm nổi bật của đỉnh tầng đối lưu là có hiện tượng nghịch

nhiệt (nhiệt độ tăng theo độ cao). Khí áp, nhiệt độ và các dòng khí ở đây dao động

rất mạnh, làm cho không khí hội tụ và phân kì.

1.3.2. Tầng bình lưu

Giới hạn từ đỉnh tầng đối lưu đến độ cao khoảng 50 - 60 km.



Đặc điểm của tầng này là không khí khô, loãng và chuyển động thành

luồng ngang. Tầng bình lưu tập trung phần lớn khí ô-zôn, nhất là độ cao khoảng

22 đến 25 km. Do tia nắng Mặt trời đốt nóng trực tiếp và ô-zôn hấp thụ bức xạ

Mặt trời nên nhiệt độ ở đỉnh tầng bình lưu tăng lên đến +10 oC. Màng ô-zôn có vai

trò rất lớn trong việc bảo vệ sự sống trên Trái đất.

1.3.3. Tầng giữa

Giới hạn từ giới hạn trên của tầng bình lưu đến độ cao 75 - 80 km.

Đặc điểm của tầng này là nhiệt độ giảm mạnh theo độ cao và xuống còn

khoảng -70oC đến – 80oC. Ở đỉnh tầng, không khí rất loãng, từ mặt đất đến hết

tầng khí quyển giữa tập trung hơn 99,5% khối lượng của khí quyển.

1.3.4. Tầng ion (tầng nhiệt)

Giới hạn: từ giới hạn trên của tầng giữa đến độ cao khoảng 1000 km

Ở đây nhiệt độ rất cao, ở độ cao 600 km nhiệt độ lên đến 1500 oC. Dưới tác

dụng của bức xạ tử ngoại và bức xạ hạt của Mặt trời cấu tạo phân tử và nguyên tử

của các khí bị phá vỡ, một số vỏ điện tử tách ra khỏi vỏ điện tử. Do đó trong

không gian có những nguyên tử nguyên lành, những nguyên tử mất điện và những

nguyên tử riêng biệt. Trạng thái vật chất như vậy gọi là trạng thái siêu khí hoặc vật

chất ở trạng thái này gọi là Plas-ma. Qúa trình tách ra của các nguyên tử để tạo

nên các điện tử mang điện gọi là quá trình ion hoá. Vì thế tầng nhiệt còn gọi là

tầng điện li, quá trình ion hoá cực đại diễn ra ở độ cao 100 km.

Tầng nhiệt có vai trò bảo vệ sinh quyển, vì nó hấp thụ tia Rơn-ghen không

cho tia này xâm nhập đến tầng đối lưu.

1.3.5. Tầng ngoài (tầng khuyếch tán)

Giới hạn: từ trên 1000 km đến dưới 20000 km

Tầng khí quyển ngoài chủ yếu là khí hê-li và hi-đrô, không khí ở tầng này

rất loãng. Có khả năng khuyếch tán các chất khí vào không gian, vũ trụ với tốc độ

lớn.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

×