Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 71 trang )
Thành phần khoáng chiếm phần lớn trọng lượng của đất, quyết định tính chất của
các loại thổ nhưỡng. Thành phần, kích thước của các khoáng chất có trong đất phụ
thuộc vào mức độ phong hoá của đá mẹ, vì thế người ta có thể biết trước được tính
chất của đất khi biết đá mẹ. Thí dụ: đất hình thành trên đá granít thường có tỷ lệ
cát và sét ngang nhau, có tính chất vật lý tốt. Trong đất, các hạt khoáng này thường
gắn lại thành những kết hạt có kích thước khác nhau. Đất có kết hạt gọi là đất có
cấu tượng. Đất có cấu tượng tốt phải có một lượng keo đất cần thiết đủ để các hạt
đất gắn vào nhau một cách bền vững, có khả năng hấp thụ, dự trữ các chất dinh
dưỡng, không để các chất này rửa trôi một cách quá nhanh các đặc tính quan trọng
của đất. Chính vì vậy đất có cấu tượng chính là đất có độ phì cao.
Ngoài ra trong đất còn có nước và không khí.
1.3. Các nhân tố hình thành đất
Đất là vật thể tự nhiên, được hình thành do tác động đồng thời của các nhân
tố sau:
- Đá mẹ:
Mọi loại đất đều được tạo thành từ những sản phẩm phá huỷ của đá gốc
(nham thạch). Những sản phẩm phá huỷ đó được gọi là đá mẹ.
Đá mẹ là nguồn cung cấp vật chất vô cơ cho đất, do đó quyết định thành
phần khoáng vật, thành phần cơ giới và ảnh hưởng trực tiếp tới các tính chất hoá
học của đất.
- Khí hậu:
Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành đất là nhiệt độ và
độ ẩm. Tác động của nhiệt và độ ẩm làm cho đá bị phá huỷ thành các sản phẩm
phong hoá. Những sản phẩm này tiếp tục phong hoá thành đất.
Khí hậu còn ảnh hưởng tới sự hình thành đất một cách gián tiếp được thể
hiện rõ rệt thông qua nhân tố sinh vật; các yếu tố khí hậu còn ảnh hưởng trực tiếp
đến tính chất giàu hay nghèo của một số khu vực về sinh vật, đến tính chất, cường
độ phát triển của giới sinh vật và đến tất cả các chức năng mà sinh vật hoàn thành
trong đất. Điều kiện khí hậu còn quyết định một quy luật quan trọng của địa lí thổ
nhưỡng là tính địa đới, trong hoàn cảnh nào đó nhân tố khí hậu biểu hiện rất rõ,
gần như quyết định hơn những nhân tố khác. Nhưng quá trình hình thành đất vẫn
là kết quả tác động đồng thời của các nhân tố.
- Địa hình:
Địa hình có ảnh hưởng đến kết quả tác động của các nhân tố khác trong sự
hình thành thổ nhưỡng, sự di chuyển của các chất khoáng và hữu cơ, các chế độ
nhiệt, ẩm, gió, các đặc điểm của sinh vật ở các địa hình khác nhau sẽ có các điều
kiện không giống nhau, do vậy quá trình hình thành đất sẽ không đồng nhất ở các
dạng địa hình.
- Sinh vật:
Có vai trò chủ đạo trong việc hình thành đất, thực vật cung cấp xác vật chất
hữu cơ (cành khô, lá rụng) cho đất. Rễ thực vật bám vào khe nứt của đá làm phá
huỷ đá vì sinh vật phân giải chất hữu cơ, xác sinh vật và tổng hợp thành mùn đó là
vật chất hữu cơ chủ yếu của đất. Động vật sống trong đất như gián, kiến, mối cũng
góp phần làm thay đổi một số tính chất vật lý, hoá học của đất.
- Thời gian:
Toàn bộ các hiện tượng xảy ra trong quá trình hình thành đất như quá trình
phong hoá đá, quá trình di chuyển vật chất trong đất, quá trình hình thành vật chất
hữu cơ đều cần có thời gian.
Thời gian từ khi bắt đầu hình thành một loại đất đến nay gọi là tuổi của đất.
Đất có độ tuổi già nhất là đất ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới, vì quá trình hình
thành chúng không bị gián đoạn. Các loại đất trẻ nhất là đất ở miền cực và miền
ôn đới chúng mới được hình thành sau thời kỳ băng hà Đệ Tứ, cách đây chưa đến
1,5 triệu năm.
- Con người:
Con người tác động đến sự hình thành đất ở hai khía cạnh là tích cực và
tiêu cực. Tác động tích cực của con người đến đất đai là làm cho đất ngày càng
màu mỡ hơn còn tác động tiêu cực của con người đến đất đai là làm cho đất đai bị
xói mòn, bạc màu, thoái hóa.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành đất thì nhân tố con người
có ảnh hưởng rất lớn, nhất là những tác động tiêu cực của con người lại càng có
ảnh hưởng nhanh chóng và mạnh mẽ hơn cả.
2. Sinh quyển
2.1. Khái niệm
Sinh quyển là một quyển của Trái đất, trong đó có toàn bộ sinh vật sinh
sống.
Chiều dày của sinh quyển tuỳ thuộc vào giới hạn phân bố của sinh vật.
Giới hạn phía trên là nơi tiếp giáp tầng ôzôn của khí quyển (22 - 25 km)
Giới hạn phía dưới xuống tận đáy đại dương (sâu nhất > 11 km) ở lục địa
xuống tới đáy của lớp vỏ phong hoá.
Tuy vậy, sinh vật không phân bố đều trong toàn bộ chiều dày của sinh
quyển mà chỉ tập trung vào nơi có thực vật mọc, dày khoảng vài chục mét ở phía
trên và dưới bề mặt Trái đất.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của sinh vật
- Khí hậu:
Khí hậu: ảnh hưởng trực tiếp sự phát triển và phân bố sinh vật chủ yếu
thông qua các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm không khí, nước và ánh sáng.
Nhiệt độ: mỗi loài sinh vật thích nghi với một giới hạn nhiệt nhất định. Các
loài ưa nhiệt thường phân bố ở các vùng nhiệt đới và xích đạo. Trái lại, các loài
chịu lạnh chỉ phân bố ở các vĩ độ cao và các vùng núi cao. Nơi có nhiệt độ thích
hợp, sinh vật sẽ phát triển nhanh và thuận lợi hơn.
Nước và độ ẩm không khí: những nơi có điều kiện nhiệt, nước và ẩm thuận
lợi như vùng xích đạo, nhiệt đới ẩm, cận nhiệt gió mùa, ôn đới ẩm sẽ có nhiều loài
sinh vật sinh sống. Còn ở hoang mạc, khí hậu rất khô nóng có ít loài sinh vật cư
trú tại đó.
Ánh sáng quyết định quá trình quang hợp của cây xanh. Những cây ưa
sáng thường sống và phát triển tốt ở nơi có đầy đủ ánh sáng. Những cây chịu bóng
thường sống dưới tán lá của cây khác.
- Đất:
Các đặc tính lý, hoá học và độ phì của đất ảnh hưởng đến sự phát triển và
phân bố của thực vật.
Đất đỏ vàng ở khu vực nhiệt đới ẩm và xích đạo thường có tầng dày, độ ẩm
và tính chất vật lí tốt nên có rất nhiều loài thực vật sinh trưởng và phát triển.
Đất ngập mặn ở các bãi triều ven biển nhiệt đới có các loài cây ưa mặn như:
sú, vẹt, đước, mắm.... Vì thế rừng ngập mặn chỉ phát triển và phân bố ở các bãi
triều ven biển.
- Địa hình:
Độ cao, hướng sườn, độ dốc của địa hình ảnh hưởng đến sự phân bố của
sinh vật ở vùng núi: nhiệt độ, độ ẩm không khí thay đổi theo độ cao của địa hình,
dẫn đến hình thành các vành đai sinh vật khác nhau, do đó ảnh hưởng đến độ cao
bắt đầu và kết thúc của các vành đai sinh vật.
- Sinh vật:
Thức ăn là nhân tố sinh học quyết định đối với sự phát triển và phân bố của
động vật.
Động vật có quan hệ với thực vật về nơi cư trú và nguồn thức ăn. Nhiều
loại động vật ăn thực vật lại là thức ăn của động vật ăn thịt. Vì vậy, các loài động
vật ăn thực vật và động vật ăn thịt phải cùng sống trong một môi trường sinh thái
nhất định. Do đó thực vật có ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của động vật.
Nơi nào thực vật phong phú thì động vật cũng phong phú và ngược lại.
- Con người:
Con người có ảnh hưởng lớn đến sự phân bố sinh vật. Điều này thể hiện rõ
nhất trong việc làm thay đổi phạm vi phân bố nhiều loại cây trồng và vật nuôi.
3. Sự phân bố của sinh vật và đất trên trái đất
Trong tự nhiên, trên cùng một diện tích có tính đồng nhất nhất định, các
loài thực vật thường sống chung với nhau. Toàn bộ các loài thực vật khác nhau của
một vùng rộng lớn được gọi chung là thảm thực vật.
Sự phân bố của các thảm thực vật trên thế giới phụ thuộc nhiều vào khí hậu
(chủ yếu là chế độ nhiệt, ẩm), chế độ nhiệt lại thay đổi theo vĩ độ và độ cao do đó
các thảm thực vật cũng thay đổi theo vĩ độ và độ cao địa hình. Đất chịu tác động
mạnh mẽ của khí hậu và sinh vật nên sự phân bố đất trên lục địa cũng tuân theo
quy luật này.
3.1. Sự phân bố sinh vật và đất theo vĩ độ
Sự phân bố sinh vật và đất trong tự nhiên chịu ảnh hưởng chủ yếu của điều
kiện khí hậu. Vì thế, tương ứng với các kiểu khí hậu sẽ có các kiểu thảm thực vật
và nhóm đất chính sau đây:
3.1.1. Đới lạnh (nằm trong khoảng từ hai vòng cực đến cực)
3.1.1.1. Kiểu khí hậu chính là cận cực lục địa
Đây là kiểu khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Mùa đông rất dài, hiếm khi thấy
Mặt trời và thường có bão tuyết dữ dội kèm theo cái lạnh cắt da. Nhiệt độ trung
bình luôn dưới -10oC, thậm chí xuống đến – 50oC.
Mùa hạ thật sự chỉ dài 2 - 3 tháng. Mặt trời di chuyển suốt ngày đêm ở
đường chân trời, có nơi đến sáu tháng liền. Trong thời gian này, nhiệt độ có tăng
lên nhưng ít khi vượt quá 10oC.
Lượng mưa trung bình hàng năm rất thấp (dưới 500 mm) và chủ yếu ở dạng
tuyết rơi (trừ mùa hạ). Đất đóng băng quanh năm, chỉ tan một lớp mỏng trên mặt
khi mùa hạ đến.
3.1.1.2. Kiểu thảm thực vật chính là đài nguyên
Ở vùng đài nguyên phương bắc, khí hậu lạnh quanh năm, thực vật chỉ phát
triển được vào mùa hạ ngắn ngủi, trong những thung lũng kín gió. Cây cối còi cọc,
thấp, lùn mọc xen lẫn với rêu, địa y…
Nhóm đất chính là đài nguyên
3.1.2. Đới ôn hoà (khoảng từ chí tuyến đến hai vòng cực ở hai bán cầu)
Có các kiểu khí hậu chính:
3.1.2.1.Kiểu khí hậu ôn đới lục địa
Lượng mưa ít, thường không quá 1000 mm. Mưa tập trung vào mùa hạ.
Mùa đông lạnh và tuyết rơi nhiều, mùa hạ nóng.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng lá kim.
Nhóm đất chính là đất pôtdôn.
3.1.2.2.Kiểu khí hậu ôn đới hải dương
Mưa nhiều và mưa quanh năm. Mùa hạ mát mẻ, mùa đông không lạnh lắm.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng lá rộng và rừng hỗn hợp.
Nhóm đất chính là đất nâu và xám.
3.1.2.3. Kiểu khí hậu cận nhiệt Địa Trung Hải
Nhìn chung mưa ít, mưa tập trung vào mùa thu và đông. Mùa đông không
lạnh, mùa hạ nóng khô.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng và cây bụi lá cứng cận nhiệt.
Nhóm đất chính là đất đỏ vàng.
3.1.3. Đới nóng
3.1.3.1. Kiểu khí hậu xích đạo ẩm (từ 5oB đến 5oN)
Khí hậu nóng và ẩm quanh năm. Biên độ dao động nhiệt trong năm rất nhỏ
khoảng 3oC. Lượng mưa trung bình năm lớn, dao động từ 1500 - 2500 mm, mưa
quanh năm, càng gần xích đạo mưa càng nhiều.