Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 71 trang )
3.1.1.2. Kiểu thảm thực vật chính là đài nguyên
Ở vùng đài nguyên phương bắc, khí hậu lạnh quanh năm, thực vật chỉ phát
triển được vào mùa hạ ngắn ngủi, trong những thung lũng kín gió. Cây cối còi cọc,
thấp, lùn mọc xen lẫn với rêu, địa y…
Nhóm đất chính là đài nguyên
3.1.2. Đới ôn hoà (khoảng từ chí tuyến đến hai vòng cực ở hai bán cầu)
Có các kiểu khí hậu chính:
3.1.2.1.Kiểu khí hậu ôn đới lục địa
Lượng mưa ít, thường không quá 1000 mm. Mưa tập trung vào mùa hạ.
Mùa đông lạnh và tuyết rơi nhiều, mùa hạ nóng.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng lá kim.
Nhóm đất chính là đất pôtdôn.
3.1.2.2.Kiểu khí hậu ôn đới hải dương
Mưa nhiều và mưa quanh năm. Mùa hạ mát mẻ, mùa đông không lạnh lắm.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng lá rộng và rừng hỗn hợp.
Nhóm đất chính là đất nâu và xám.
3.1.2.3. Kiểu khí hậu cận nhiệt Địa Trung Hải
Nhìn chung mưa ít, mưa tập trung vào mùa thu và đông. Mùa đông không
lạnh, mùa hạ nóng khô.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng và cây bụi lá cứng cận nhiệt.
Nhóm đất chính là đất đỏ vàng.
3.1.3. Đới nóng
3.1.3.1. Kiểu khí hậu xích đạo ẩm (từ 5oB đến 5oN)
Khí hậu nóng và ẩm quanh năm. Biên độ dao động nhiệt trong năm rất nhỏ
khoảng 3oC. Lượng mưa trung bình năm lớn, dao động từ 1500 - 2500 mm, mưa
quanh năm, càng gần xích đạo mưa càng nhiều.
Thảm thực vật chính là rừng rậm xanh quanh năm. Trong rừng cây mọc
thành nhiều tầng từ mặt đất lên đến độ cao 40 - 50m.
Nhóm đất chính là đỏ vàng (Fe-ra-lít).
3.1.3.2. Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa (điển hình là ở Đông Nam Á và Nam Á)
Khí hậu nhiệt đới gió mùa có hai đặc điểm cơ bản: nhiệt độ, lượng mưa
thay đổi theo mùa gió và thời tiết diễn biến thất thường.
Thảm thực vật chủ yếu là rừng nhiệt đới ẩm.
Nhóm đất chính là đất đỏ vàng.
3.1.3.3. Kiểu khí hậu nhiệt đới
Khí hậu nhiệt đới được đặc trưng bởi nhiệt độ cao quanh năm. Tuy nóng
quanh năm nhưng vẫn có sự thay đổi theo mùa. Thời kì nhiệt độ tăng cao là thời
gian Mặt trời đi qua thiên đỉnh. Lượng mưa trung bình từ 500 - 1500 mm, chủ yếu
tập trung vào mùa mưa. Càng gần chí tuyến lượng mưa càng giảm.
Thảm thực vật chủ yếu là đồng cỏ cao nhiệt đới (xa-van).
Nhóm đất chính là đất có màu đỏ vàng.
3.2. Sự phân bố sinh vật và đất theo độ cao
Hình 1.17 Các vành đai thực vật và đất ở sườn tây dãy Cap-ca
Ơ vùng núi, càng lên cao, nhiệt độ và áp suất không khí càng giảm, còn độ
ẩm không khí lại tăng lên đến một độ cao nào đó rồi mới giảm. Chính sự khác
nhau về nhiệt và ẩm này đã tạo nên sự thay đổi của thực vật và đất theo độ cao.
4.Thực hành
Phân tích mối quan hệ giữa khí hậu, sinh vật và đất
Bảng 1.5 Mối quan hệ giữa khí hậu, sinh vật và đất
Độ cao (m)
>1600-1700
đến 2600
600-700 đến
1600-1700
<600-700
Nhiệt độ
TB (oC)
Lượng
mưa
Đất
Kiểu thảm thực vật
TB năm
<15
>2000
15-20
>2000
Rừng rêu cận nhiệt đới mưa Đất mùn thô
mù trên núi
trên núi cao
mùn
Rừng rậm cận nhiệt đới ẩm Đất
lá rộng thường xanh trên núi
vàng đỏ trên
núi
>20
1500-1800
Rừng rậm nhiệt đới gió mùa Đất đỏ vàng
nửa rụng lá
Từ số liệu ở bảng trên, có thể rút ra nhân xét gì về mối quan hệ giữa khí
hậu, thực vật và đất ở Việt Nam.
VI. Lớp vỏ cảnh quan và một số quy luật của lớp vỏ cảnh quan
1. Lớp vỏ cảnh quan
1.1. Khái niệm
Lớp vỏ cảnh quan là bộ phận phức tạp nhất của hành tinh chúng ta về thành
phần vật chất, về cấu trúc. Nó gồm thạch quyển, thuỷ quyển, khí quyển, sinh
quyển cùng với các thể xâm nhập mắc ma và cả toàn bộ các thể hữu cơ sống tại
các quyển trên.
Chiều dày của lớp vỏ cảnh quan khoảng 30-35 km tính từ giới hạn dưới của
tầng ô-zôn đến đáy vực thẳm đại dương, ở lục địa xuống hết lớp vỏ phong hoá.
1.2. Các dấu hiệu của lớp vỏ cảnh quan
Lớp vỏ cảnh quan gồm hai dấu hiệu cơ bản:
Có nền móng cơ sở là bề mặt vật lí của Trái đất. Bề mặt này khác cơ bản về
chất với những lớp bên trong của vỏ Trái đất. Đó là cơ sở khẳng định lớp vỏ này
không xuất hiện cùng lúc với Trái đất mà có thể xuất hiện đồng thời với vỏ Trái
đất mà thôi. Do vậy, người ta đặt tên là vỏ địa lí hay vỏ cảnh quan. Đây chính là
đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên (nghiên cứu bề mặt có chiều dày chứ
không phải lớp vỏ trên mặt).
Đặc trưng cơ bản nhất của lớp vỏ cảnh quan là sự phân dị lãnh thổ. Đó là sự
phân chia lớp vỏ cảnh quan thành những đơn vị lãnh thổ cá thể mà người ta gọi đó
là vỏ cảnh quan hay là tổng thể địa lí tự nhiên. Đó là những đơn vị lãnh thổ không
giống nhau về mặt nguồn gốc phát sinh nhưng có sự đồng nhất về thành phần, về
cấu tạo và về những mối quan hệ lẫn nhau trong từng đơn vị lãnh thổ.
1.3. Giải thích về nguồn gốc phát triển của vỏ cảnh quan
Trong quá trình hình thành nên Trái đất khi mà thể tích Trái đất lớn đến
mức nhiệt phóng xạ bên trong Trái đất không thể thoát ra ngoài đã tích tụ và đốt
nóng làm chảy tất cả các vật chất bên trong Trái đất theo hướng phân dị theo trọng
lực (vật chất nhẹ được nổi lên bốc hơi và lên trên bề mặt để tạo ra lớp vỏ ngoài
người ta gọi là thạch quyển). Lớp này khác về chất với lớp bên trong của Trái đất
đồng thời có sự tích tụ và xâm nhập các vật chất khí và hơi nước từ các vật chất
nóng chảy xâm nhập vào không gian vũ trụ hay thạch quyển hay vào những vùng
trũng của bề mặt tạo thành khí quyển và thuỷ quyển. Ba quyển: thạch quyển, khí
quyển, thuỷ quyển bắt đầu có sự xâm nhập vào nhau cho đến khi có sự ra đời của
sinh quyển thì sự tác động xảy ra mạnh mẽ theo hướng hoàn thiện về thành phần
cấu trúc dần dần tạo nên lớp vỏ cảnh quan. Vậy lớp vỏ cảnh quan ra đời sau sự ra
đời của Trái đất.