1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

4 Vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học :

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 165 trang )


*. Nhân vật phản diện:

Trái lại với nhân vật chính diện, “nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa trái với

đạo lý và lí tưởng, đáng lên án và phủ định ”. [62, tr.285]. Từ những quan niệm trừu tượng về bản

chất con người, đôi khi trong các sáng tác văn học, kiểu nhân vật phản diện được xây dựng đơn

giản, máy móc, một chiều. Các nhà văn học hiện thực phê phán thường đưa cái cao cả và cái tầm

thường, cái đẹp với cái lố bịch thống nhất trong nhân vật. Cho nên từ chỗ chỉ ra đâu là phản diện,

đâu là chính diện cho nhân vật ấy, thật không dễ. Và vì thế đôi lúc sự phân biệt nhân vật chính diện,

nhân vật phản diện không phải bao giờ cũng rạch ròi, rõ nét. Đó cũng là cơ sở cho các nhà nghiên

cứu đưa ra kiểu nhân vật trung gian.

*Nhân vật trung gian:

Đứng giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là nhân vật trung gian. Kiểu nhân vật này

thường không cố định mà luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Nhân vật theo từng hoàn cảnh có thể

tốt hoặc xấu đi.

1.4.2.2. Từ góc độ kết cấu – cốt truyện :

Trong tác phẩm văn học thường có một hoặc nhiều nhân vật. Và trong các trường hợp đó, không

phải mọi nhân vật trong tác phẩm văn học đều có vai trò như nhau trong kết cấu và cốt truyện tác

phẩm. Dưới đây là một số kiểu nhân vật nhìn từ góc độ kết cấu – cốt truyện :

*. Nhân vật chính :

Đây là nhân vật xuất hiện nhiều và giữ vị trí then chốt trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư

tưởng tác phẩm. Nhân vật này liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả

triển khai đề tài cơ bản của mình và là nhân vật được khắc họa đầy đặn, có tiểu sử, có nhiều tình

tiết. Nhân vật chính phải là người ở trong xung đột của tác phẩm, đại diện cho một phía của xung

đột tác phẩm, số phận của nó gắn liền với sự phát triển xung đột của truyện.

*. Nhân vật trung tâm :

Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên

suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là

nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Nhận ra nhân vật trung tâm là rất quan trọng. Bởi lẽ

nhận ra được nhân vật trung tâm tức là chúng ta hiểu được vấn đề cơ bản của tác phẩm. Lại có khi

nhân vật trung tâm là nhân vật được nói đến, chứ không phải là nhân vật chính trong cốt truyện.

*. Nhân vật phụ :

Ngoài nhân vật chính, nhân vật trung tâm, còn có nhân vật phụ. Có nhân vật phụ ở bình diện hai,

có tính cách, tình tiết, lại có nhân vật phụ hàng thứ ba, chỉ thấp thoáng trong các tình tiết. Tuy vậy



vẫn không thể coi nhẹ nhân vật phụ. Bởi lẽ chúng chẳng những là một bộ phận không thể thiếu của

bức tranh chung, mà nhiều khi còn hàm chứa những tư tưởng quan trọng của tác phẩm.

1.4.2.3. Từ góc độ thể loại :

Nếu xét từ góc độ thể loại, có thể phân ra ba dạng : nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ

tình.

*. Nhân vật tự sự :

Nhân vật tự sự là nhân vật là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự. Nhân vật này

thường xuất hiện trong các tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, truyện thơ. Đây

là loại nhân vật có thể được miêu tả đầy đặn nhất, phong phú nhất và ít bị hạn chế.

*. Nhân vật kịch :

Nhân vật kịch là nhân vật được miêu tả theo phương thức kịch, chủ yếu xuất hiện ở trong kịch.

Vì kịch viết là để diễn nên bị hạn chế bởi không gian và thời gian; vì thế nên nhân vật kịch chỉ được

miêu tả ở những khâu xung đột căng thẳng nhất. Do đó nhân vật kịch giàu kịch tính, góp phần tạo

nên tính kịch ở vở kịch. Các nhân vật có tính kịch trong tự sự là loại nhân vật gần gũi với nhân vật

kịch.

*. Nhân vật trữ tình :

Nhân vật trữ tình là nhân vật được xây dựng theo phương thức trữ tình, trực tiếp thể hiện cảm

xúc, ý nghĩa trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình thường xuất hiện dưới dạng phiến đoạn trong nhiều

thể loại khác nhau như : thơ trữ tình, bút kí, tùy bút... nhưng chủ yếu là trong thơ trữ tình và thường

được gọi là “cái tôi trữ tình”.

1.4.2.4 Từ góc độ chất lượng nghệ thuật :

Xét từ góc độ chất lượng nghệ thuật, người ta thường dùng cái khái niệm tính cách và điển hình

để chỉ những nhân vật được khắc họa rõ nét. Từ khái niệm nhân vật tới khái niệm tính cách và tính

cách điển hình là những mức độ khác nhau về chất lượng – tư tưởng nghệ thuật của sự thể hiện con

người trong tác phẩm văn học. Tính cách là những nhân vật đã được khắc họa có chiều sâu với

những đặc điểm tâm lí, diện mạo tương đối rõ nét, đủ định hình để nhận ra đặc điểm của nhân vật

đó. Tính cách đạt đến mức độ thật sâu sắc thì trở nên điển hình. Chỉ trong những tác phẩm xuất sắc

mới có những tính cách đạt đến trình độ điển hình.

1.4.2.5 Từ góc độ cấu trúc nhân vật :

Đứng từ góc độ này có thể chia nhân vật ra làm các loại: Nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,

nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.



*. Nhân vật chức năng :

Nhân vật này còn gọi là “nhân vật mặt nạ” là loại nhân vật thực hiện một số chức năng nào đó

trong tác phẩm. Các nhân vật chức năng thường được cấu trúc như một phương tiện, công cụ. Do

vậy phẩm chất nhân vật dường như không thay đổi từ đầu đến cuối . Đời sống nội tâm của nhân vật

cũng không được miêu tả. Loại nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học dân gian và văn

học cổ trung đại.

*. Nhân vật loại hình :

Nhân vật loại hình là nhân vật mà ở đó có một nét tính cách được tô đậm trở nên tiêu biểu cho

loại người nào đó trong xã hội của những thời đại nhất định. Loại nhân vật này dựa trên cơ sở tập

trung miêu tả một nét tính cách nổi bật và thường là nét tính cách trở thành tên gọi của nhân vật.

*Nhân vật tính cách :

Đây là loại nhân vật có cá tính đầy đặn nhiều mặt. Nhân vật tính cách thường được xem như một

nhân cách. Có thể thấy nét khác nhau căn bản giữa nhân vật tính cách và nhân vật loại hình ở chỗ

một bên tính cách đa diện như một cá nhân, còn một bên chỉ có một nét tính cách được tô đậm

thành loại hình.

*. Nhân vật tư tưởng :

Là loại nhân vật giữ chức năng bộc lộ một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Do vậy suy đến

cùng nhân vật tư tưởng cũng là một dạng của nhân vật chức năng. Nhân vật tư tưởng thường giữ vai

trò “cái loa” phát ngôn cho tư tưởng tác giả. Do đó loại nhân vật này rất dễ trở nên công thức minh

họa.

Trên đây là một số kiểu và loại nhân vật thường gặp. Cách phân chia ra các loại kiểu khác nhau

ở trên là tương đối. Trên thực tế không phải bao giờ cũng phân định nhân vật một cách rạch ròi như

vậy được : Tuy nhiên, việc phân chia này cho phép ta nắm bắt dễ dàng hơn, và từ đó thuận lợi hơn

trong việc tìm hiểu, phân tích nhân vật.

1.4.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp xây dựng nhân vật :

Như đã nói ở trên, nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng phương tiện

nghệ thuật. Các phương thức thể hiện nhân vật hết sức đa dạng. Có thể nói văn học đa dạng đến đâu

các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Dưới đây người viết xin trình bày

những vấn đề chung nhất về các phương thức, phương tiện này.

1.4.3.1.Chi tiết nghệ thuật :

Có thể thấy nhân vật trước hết được miêu tả bằng các chi tiết . Đó là những biểu hiện mọi mặt

của con người mà người ta có thể căn cứ để cảm biết về nó . Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân



dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm, thể hiện những mâu

thuẫn, xung đột, sự kiện. Có thể miêu tả nhân vật một cách trực tiếp, nhưng ,cũng có thể miêu tả

gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối với nhân vật. Nhân vật cũng có thể được

thể hiện bằng các phương tiện khác của văn học như qua lời văn, kết cấu, loại thể. Những phương

tiện này càng làm phong phú thêm các phương thức khắc họa nhân vật.

1.4.3.2.Một phương diện khác cần chú ý là ở những loại hình nhân vật khác nhau có những

phương thức xây dựng khác nhau phù hợp với đặc điểm của loại hình nhân vật. Ngoài ra các thời

đại khác nhau cũng có những cách thức xây dựng nhân vật khác nhau. Có thể nói các biện pháp,

phương tiện xây dựng nhân vật rất phong phú. Sự đa dạng về loại hình nhân vật cũng đòi hỏi có

những phương thức miêu tả phù hợp. Tìm hiểu thế giới phong phú và đa dạng của nhân vật là cần

thiết, bởi lẽ qua đó sẽ hiểu được nội dung nghệ thuật mà nó khái quát



CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN VẬT TRONG

THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN

LỤC.

2.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên và tôn giáo:

2.1.1. Khái quát chung:

Có thể thống kê số lần xuất hiện của loại hình nhân vật siêu nhiên và tôn giáo như sau:

stt

01

02

03

04

05

06

07

08

09

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25



Tên tác phẩm

Truyện hai Phật cãi nhau

Trận cười ở núi Vũ Môn

Ngọc nữ về tay chân chủ

Truyện hai thần hiếu đễ

Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc

Truyện một giấc mộng

Một dòng chữ lấy được gái thần

Chuyện cây gạo

Chuyện gã trà đồng giáng sinh

Chuyện đối tụng ở Long Cung

Chuyện nghiệp oan của Đào thị

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên

Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào

Chuyện yêu quái ở Xương Giang

Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na

Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều

Chuyện Lý tướng quân

Chuyện tướng dạ xoa

Thần cửa cờn

Tiên trên đảo

Phạm Viên

Tiên ăn mày

Thần giữ của

Thần đền Chiêu Trưng



Thần

tiên



Đạ

o sĩ



Nhà sư



Ghi chú



+

+

+

+

+

+

+



+



+

+

+



+



+

+

+

+

+



+

+

+

+



+

+

+



+

+

+

+

+

+



Từ bảng thống kê, có thể thấy trong tồng số 84 tác phẩm mà chúng tôi khảo sát thì viết về loại

hình nhân vật này là 25 bài, chiếm 20 %. Điều này đã cho thấy hệ thống nhân vật siêu nhiên và tôn

giáo không chiếm số lượng nhiều như trước đây. Như vậy có nghĩa là thể loại truyền kì đến Thánh

Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã không đơn thuần chỉ có những nhân vật

bước ra từ văn học dân gian và văn xuôi lịch sử nữa. Những ông bụt, ông tiên trong truyện cổ tích

giờ đã nhường chỗ cho những con người bình thường, thậm chí những con người dưới đáy xã hội.

Trong số này nhân vật thần tiên xuất hiện nhiều ở Thánh Tông di thảo và Lan Trì kiến văn lục, còn

Truyền kì mạn lục thì nhân vật đạo sĩ lại chiếm số lượng đông đảo hơn. Điều đó cũng do tư tưởng



của các nhà văn chi phối. Lê Thánh Tông mượn hình ảnh của thần tiên đầy phép mầu để phù trợ

giúp mình trong việc trừ ma, diệt quỷ. Thời đại Vũ Trinh chế độ phong kiến xuống cấp trầm trọng,

nhà văn đưa hình ảnh thần tiên đến như để an ủi những số phận, những con người bất hạnh trong

cuộc đời. Với Nguyễn Dữ thì việc trả ấn từ quan quay về với chốn lâm tuyền giữ tâm hồn trong sạch

lại được gửi gắm qua hình ảnh người ở ẩn. Chính vì những điểm này mà hệ thống các nhân vật

trong tác phẩm được thể hiện đậm nhạt khác nhau. Tuy vậy, có thể nhận thấy điểm chung nhất là

loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã thể hiện những tư tưởng, quan niệm của các tác giả về con

người, về xã hội mà mình đang sống.

2.1.2. Loại hình các nhân vật thần tiên, đạo sĩ:

Người xưa quan niệm: thiên nhân tương cảm, ngụ ý con người và vũ trụ có mối tương quan với

nhau. Chính vì vậy văn chương thời trung đại thường mượn những hình ảnh của siêu nhiên để thể

hiện cách cảm nhận của con người về thế giới, “đã có một thời kì, cái siên nhiên xuất hiện trong một

hình thức truyện ở thế kỷ XV như một xương sống chi phối toàn bộ cốt truyện được gọi là truyền

thuyết và cổ tích” [25,tr.19]. Nếu như nghệ thuật nhân hóa là một phương thức được sử dụng để

nhà văn khoác cho nhân vật vật thể và phi vật thể một tính cách, một cuộc sống như con người, thì

có thể thấy phương thức thần kì hóa lại như là một cứu cánh cho nhân vật truyền kì có một sức

mạnh, một khả năng siêu nhiên. Và điều này có thể thấy rõ nhất qua hệ thống các nhân vật thần tiên,

đạo sĩ.

Loại hình nhân vật thần tiên, đạo sĩ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến

văn lục ở một mức độ đậm nhạt mang màu sắc của Đạo giáo. Nhân cách, lối sống của các nhân vật

này đều chịu sự chi phối bởi quan niệm của người sáng tác. Nó trực tiếp quy định việc lựa chọn hệ

thống các yếu tố thi pháp miêu tả nhân vật. Đồng thời loại hình nhân vật này cũng cho thấy quan

niệm tam giáo đồng nguyên của người trung đại.

2.1.2.1. Loại hình các nhân vật thần tiên:

Thần tiên là một trong những hình tượng mang dấu ấn của truyện cổ tích khá rõ nét. Người đọc

một thời xa xưa đã quá quen với những ông bụt, ông tiên hiền lành ban phát niềm vui, hạnh phúc

cho những con người bất hạnh. Vì vậy loại hình nhân vật này bao giờ cũng dành được những tình

cảm ưu ái của nhân dân và của nhà văn.

Theo quan niệm văn hóa Phương Đông, con người lý tưởng xét về nguồn gốc là những con

người được vũ trụ, trời đất sinh ra. Trong đó thần tiên là những con người được kết tinh từ những gì

tinh túy nhất của vũ trụ. Và để xây dựng thành công kiểu nhân vật này các nhà văn chủ yếu đi sâu

vào việc miêu tả hình dáng, hành động với màu sắc thần kì, phi thường. Đầu tiên là ngoại hình:



dáng mạo nhân vật thường tuấn tú, thoát tục tiêu biểu cho cốt cách tiên gia. Chân dung của người

thần thổi địch trong Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc của Lê Thánh Tông được miêu tả: “Ta thấy người đó

trạc hai mươi tuổi, tóc xõa chấm vai, môi son mắt phượng, thoang thoảng có mùi hương chi lan.

Người đó đầu đội khăn vuông, mặc áo xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo một ống địch bằng

trúc” [117,tr.36]. Ở loại hình này vắng bóng việc miêu tả nhân vật bằng các chi tiết cụ thể. Bóng

dáng và trang phục được miêu tả mang tính ước lệ, tượng trưng nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra

được tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Để thấy được sự siêu nhiên, khác người thường của thần tiên, nhà

văn chủ yếu đi sâu miêu tả nhân vật qua những hành động phi thường. Đầu tiên là ở khả năng đi lại

của nhân vật. Thần tiên đi lại bằng những con vật là biểu tượng cho sức mạnh của vũ trụ. Trong

Ngọc nữ về tay chân chủ, Lê Thánh Tông miêu tả nhân vật thần sông, thần núi đi bằng “cưỡi ngựa

vẫy vàng, rẽ nước bay lên”,“cưỡi xe hươu trắng đi thẳng lên cửa nhà trời”, hoặc “ trong ánh sương

mù thấy có một đám những tàn vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt

chân, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc” [117,tr 114]. Cưỡi mây, cưỡi gió cũng là một phương tiện

đi lại thường thấy ở nhân vật thần tiên. Đặc điểm này cho thấy được tầm vóc vũ trụ, ngang với đất

trời của nhân vật. Nói tới sự phi thường, kì vĩ của loại nhân vật thần tiên, các tác giả đã kể ra khả

năng biến hóa khôn lường. Thoắt ẩn thoắt hiện hay thay đổi cảnh vật bằng phép thuật là tất cả

những đặc điểm thể hiện hành động kì vĩ của nhân vật. Đó là hành động hóa phép của thần sông,

thần núi trong Ngọc Nữ về tay chân chủ. Nhân vật ở đây thần thông quãng đại, phép thuật cao

cường, tạo nên sức hấp dẫn cho bạn đọc: “Xua tay lên quãng không, chỉ vào cung khuyết ở trước

mặt Ngọc Hoàng, lập tức biến thành gò núi. Có ngọn lờ mờ như Bích Phong, có chỗ rõ ràng như

Quần Ngọc, có chim đẹp bay đậu, có thú lạ lại qua. Không phải nhích đi một bước mà cảnh tượng

đã khác nghìn vạn lần. Một lát, quỷ khóc thần sầu, núi reo hang ứng, có hổ gầm gấu rống, có thứ

rắn mồm nuốt được con voi, có thứ chim cánh giương như mây phủ. Những người hầu chung

quanh, tai nghe mà tựa hồ không muốn nghe, mắt trông tựa hồ không dám trông” [117,tr. 85].

Tương tự là hình ảnh: “Thủy thần cũng thè lưỡi thổi phù. Bỗng vạn ngõ ngàn cửa biến thành biển.

Nước bạc vỗ trời, sóng to xoáy đất, sóng dâng một lớp, núi chìm ngập đỉnh ngàn tầm, côn nhảy ba

ngàn, nước dựng như trăm cây thước. Hoặc phun lửa như cá cờ, hoặc vuốt râu thành cơn mưa. Một

lát cá rồng vắng vẻ, buồm gấm hoa bay liệng cung trăng; mây sắc bao che, cung Bồng Lai lờ mờ

mặt nước” [117,tr. 86], hay nhân vật nữ trong Nhị nữ thần truyện: “cách đoán số thì chỉ khẽ bấm đốt

ngón tay mà đoán được giàu, nghèo, thọ, yểu, việc sinh tiền, việc tử hậu rất thần linh rõ năm, ngày,

tháng, giờ, chuyện còn mất, chuyện tử sinh…đều đúng cả” (tr 25). Những đặc điểm này đã tạo nên

tính cách kì lạ của thần tiên, chính điều khác thường ấy đã mang lại cho người đọc một cảm giác bí

ẩn, lạ lẫm và sợ hãi. Thông qua hành động phi thường này, có thể phần nào nhận ra đặc điểm về tư



duy con người trung đại. Con người thời trung đại xem hành động kì vĩ, phi thường là một trong

những yếu tố hàng đầu tạo nên tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Đây cũng là cách để con người trung

đại giải thích những hiện tượng tự nhiên lúc bấy giờ, lúc mà những khoa học khám phá về tự nhiên

chưa hề có. Nguyễn Đăng Na đã nhận định về điều này: “Do chưa giải thích được nhiều hiện tượng

tự nhiên và xã hội đối với con người trung đại. Bên cạnh đời sống hiện thực còn có một đời sống

tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ siêu nhiên và một quan niệm sâu xa về thế

giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì đó xa lạ, phi hiện thực, trái lại

nó càng giúp chúng ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung đại” [68,tr737]. Ngoài ra,

với việc miêu tả tư thế, công việc của nhân vật, chúng ta có thể hiểu được đời sống của thần tiên:

“Có hai cụ già đang đánh cờ trên đó. Lại có đứa hầu nhỏ pha trà, trên phiến đá đầy la liệt tê

táo…..Hai cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ. Đến khi ván cờ gần tàn, vẫn ra vẻ không hay biết có

Lộc ở đó” [118,tr 30]. Hình ảnh này cho thấy một trạng thái ung dung, tự do, tự tại của nhân vật

Ngợi ca những tốt đẹp của nhân vật thần tiên, các tác giả không chỉ bàn về hành động kì vĩ, phi

thường của họ, mà còn ngợi ca họ ở khía cạnh nhân phẩm. Nói đến tài năng của loại hình nhân vật

này, đầu tiên phải kể đến đầu tiên tài sáng tác văn chương. Theo quan niệm của Nho gia, tài năng

văn chương là một trong những dấu hiệu bộc lộ khả năng thiên phú của nhân vật. Trần Nho Thìn đã

khẳng định: “Nếu dấu hiệu của hổ báo là các vằn đốm trên bộ lông, dấu hiệu của con phượng là sắc

lông sặc sỡ thì dấu hiệu của một thiên tài chính là văn chương” [112,tr 152]. Trong Hiếu đễ nhị

thần truyện, các thần vừa làm thơ vừa uống rượu, mỗi người ngâm lấy một bài thơ làm riêng cho

mình. Và cách làm thơ ở đây là để bình phẩm những bài thơ khác. Như vậy có thể thấy khả năng

sáng tác, đàm đạo văn chương cũng là tiêu chí để đánh giá tài năng nhân vật theo quan điểm của

người trung đại. Hơn thế nữa, qua thơ văn của một nhân vật, người xưa cho là còn có thể đánh giá

được phẩm chất cũng như năng lực hoạt động chính trị - xã hội của nhân vật đó.

Bên cạnh tài năng văn chương, lòng yêu thương con người là một trong những yếu tố cho thấy

nhân cách cao quý của thần tiên, “Điều này cho thấy sự tương thông giữa trời và người đã làm nảy

mầm cái thiện” [1,tr.44]. Giúp đỡ nho sinh là một hành động hiệp nghĩa dễ thấy ở nhân vật này. Đó

là sự giúp đỡ của thần tiên trong Hoa quốc kì duyên. Chàng Chu Sinh nhờ vào việc là cứ hai ba hôm

lại được đến gặp công chúa Hoa quốc một lần mà không cần ăn gì nhưng vẫn sống được: “Miệng

còn sặc hơi rượu, bụng vẫn còn no. Suốt ba ngày liền Sinh thấy mình vẫn no say như thế”

[117,tr.47]). Cũng có khi vị thần đó tiền thân là con người nhưng sau khi chết Thượng Đế xét thấy

có hiếu thảo nên phong cho làm thần. Những vị thần như thế cũng thường giúp đỡ thư sinh: “Hai

phong thư này em nên giấu kĩ. Đợi đến ba ngày trước khi vào phòng thi, xem chữ ghi ở trên, bắt

cháu học thuộc lòng, và có thể đỗ nhỏ đấy. Luật trời rất nghiêm, nếu để lộ cho người ngoài biết thì



hai bên đều bị tội nặng” [117,tr 94]. Và quan tâm đến những kiếp người ở tầng lớp dưới. Trong

truyện Tiên ăn mày của Vũ Trinh, mượn câu chuyện từ dân gian, nhà văn đã cho thấy người nông

dân hiền lành, chất phác, thương yêu con người đã được thần tiên tặng thưởng xứng đáng. Trong khi

đó những con người lừa dối, tham lam thì cuối cùng phải nhận những hình phạt thích đáng. Từ đó

nhà văn gửi gắm đến người đọc một bài học: ở đời đừng tham lam, độc ác và hãy sống thật với bản

chất của mình. Không chỉ giúp đỡ người học trò, anh nông dân nhân vật thần tiên còn được ngợi ca

ở tinh thần giữ gìn tài sản cho dân. Tác phẩm Thần giữ của của Vũ Trinh là một trong những kiểu

như vậy: “Dưới này chôn cất nhiều vàng bạc. Ta là thần giữ của. Nếu anh không chịu đi ngay thì tai

họa không nhỏ đâu” [118,tr 92]. Như vậy có thể thấy phẩm chất của loại hình nhân vật này bộc lộ

chủ yếu ở khía cạnh tình cảm của họ với nhân dân. Phải chăng điều này cũng giúp lý giải tại sao con

người trung đại thường xuyên nghĩ về một đấng tối cao nào đấy khi họ gặp thất bại hay buồn phiền.

Niềm tin của họ vào một thế lực siêu nhiên cũng giúp họ giữ mình sống trong sạch để không bị thần

linh trách phạt. Qua những tác phẩm truyền kì này có thể phần nào hiểu thêm về đời sống tâm linh

của con người trung đại. Mặt khác nhân vật thần tiên này cũng là mảnh đất lý tưởng để các tác giả

thay lời nhân dân bộc lộ những nguyện vọng, những ước mơ về cuộc sống, điều mà trong thực tại

con người không thể đạt được và phải tự an ủi mình bằng cách tìm đến với thế giới của thần tiên.

Ngoài ra một trong những nội dung khiến cho nhân vật thần tiên trong Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục khác với kiểu thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam

chích quái là họ cũng có đời sống tình cảm, tính cách như con người. Vương quốc của thần tiên

tưởng như không có bóng dáng của con người trần tục, thì nay đã thấy thấp thoáng. Nói khác đi thần

tiên đã được trần tục hóa. Họ cũng cần tình yêu, cũng có những khát khao hạnh phúc, tiêu biểu là

Giáng Hương trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên. Khi đã kết nghĩa phu thê với Từ Thức, Giáng

Hương trở nên “màu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa” [23,tr 105]. Hay trong Nhị nữ

thần truyện, hai nhân vật nữ ở đây tuy là thần nhưng vẫn mang những tình cảm, nguyện vọng và

phải đau khổ như con người. Cả hai cùng biết yêu thương, cùng nguyện thủy chung với chồng con,

để rồi cùng khổ đau, buồn bã như người phàm tục. Ngọc Hoàng trước nay vốn được xem là đấng

anh minh, tối cao nhất, tuyệt mỹ nhất và đặc biệt là được “trường sinh bất tử”. Vậy mà Ngọc Hoàng

trong Vũ môn tùng tiếu, Ngọc nữ về tay chân chủ cũng có lúc già nua. Điều này đã khẳng định một

chân lý: bất kể ai dù đó là Ngọc Hoàng cũng không thể thoát khỏi quy luật của tạo hóa: tuổi trẻ qua

đi, già nua và cái chết sẽ đến như một tất yếu. Tệ hơn, Ngọc Hoàng cũng có lúc nhầm lẫn, mê muội

trước những lời khoe khoang của kẻ khác: “nếu ngươi không nói ra, trẫm sẽ bị khoe khoang làm mê

hoặc” [23,tr 8]. Nếu thế giới của nhân vật thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là

“vùng đất “tịnh thổ”, “nơi các cám dỗ vật chất, những dục vọng nhất là sắc dục của thế giới phàm



tục bị truy đuổi một cách gắt gao” [112,tr 160] thì nhân vật thần tiên ở đây lại được thể hiện cả ở

những mặt tiêu cực của nó. Sơn thần và Thủy thần trong Ngọc nữ về tay chân chủ đều là những kẻ

tự kiêu, tự đại: “Núi là cao, hơn hết mọi nơi. Phượng lâu trúng tuyển, không ta thì ai? (….)Ở nhà, ta

là chúa của điểu thú, ra ngoài ta là Phò mã của Ngọc Hoàng, tôn quý biết dường nào” hoặc “nước

chảy chỗ trũng, việc thường xưa nay. Bình phong bắn sẻ không ta thì ai. (….)dưới nước thì các loài

thủy tộc là thần thiếp của ta, trên trời ta lại làm chủ nhân của Đế nữ, hiển vinh biết nhường nào”

[117tr 84-85]. Các vị thần trong Nhị nữ thần truyện cũng ganh ghét, gian dối như con người trần

tục: “Bốn tháng trước hai thần núi Trương Sơn và Trĩ Sơn vu cáo tội lỗi cho thân phụ thiếp. Thượng

đế trao bản án cho động Hoa Lư xét xử. Chủ động toàn nghe lời gian dối của hai thần kia” [117,tr

177].

Cách thức trần tục hóa thần tiên đã kéo những hình tượng của tín ngưỡng tôn giáo từ trên “bảo

tọa” xuống với người đời. Đầu tiên các nhà văn khẳng định đấy là thần tiên rồi sau đó mới phú cho

nhân vật này những đặc điểm như con người. Người đọc bắt gặp những nét kì lạ, phi thường cũng

như những hành vi đời thường của nhân vật. Chính cách viết từ hư đến thực, từ thần kì đến phàm

tục sẽ làm cho sức truyền cảm của nhân vật cao hơn. Đồng thời với cách viết này, các nhà văn dễ đi

vào những miền cấm kị của tôn giáo, vùng đất mà trước nay chưa có ai đào xới.

2.1.2.2. Loại hình các nhân vật đạo sĩ:

Bùi Duy Tân đã có nhận xét về văn chương nhà Nho thế kỉ XVI, XVII: “Lực lượng sáng tác thời

kì này chủ yếu là người ẩn sĩ, những người đã rút lui khỏi triều đường, hoặc chưa từng ra làm quan,

sống ẩn dật nơi thôn dã. Họ là những người tuy không còn mong thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình

của kẻ sĩ nhưng giữ được tấm lòng trong sạch” [130,tr143]. Có thể nói đối với những nhà nho chọn

con đường ẩn dật thì tư tưởng Lão –Trang hấp dẫn hơn tư tưởng Phật giáo. Bởi lẽ Lão Trang khuyến

khích tìm tự do, lạc thú ở thiên nhiên, ở cuộc sống yên bình, vắng bóng lợi danh, tiền tài, quyền lực,

“đã khép áo, lui chân, người ẩn dật trong trạng thái đối diện với chính mình thường xuyên đã lần

lần tiếp nhận ảnh hưởng của Lão Trang, của Thiền” [130,tr144].

Tuy vậy nói về nhân vật đạo sĩ, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục trước hết là ngợi ca tài năng của họ. Khả năng xuất quỷ nhập thần là một trong những

khả năng quan trọng của một đạo sĩ. Bởi từ khả năng này họ mới có thể hành đạo giúp đời. Nếu

nhân vật thần tiên phi thường qua chân dung, hành động thì nhân vật đạo sĩ lại khác người ở tài

năng. Đấy là một đạo nhân xuất hiện chỉ trong chốc lát: “ông mới sực nhớ đến lời đạo nhân, bèn

theo như cách đã dặn mà gọi tên ông ta. Thoắt chốc quả thấy một cỗ xe mây bay đến, đứng dừng lại

ở trên không” [117,tr46]. Không chỉ vậy, đạo sĩ còn có phép thần thông, hô phong hoán vũ. Với khả

năng khác người thường ấy, nhân vật đạo sĩ dễ dàng hơn trong việc diệt trừ yêu ma, bảo vệ dân



lành. Nhân vật trừ ma trong Chuyện cây gạo là một ví dụ điển hình. Sau khi Trình Trung Ngộ vì yêu

ma mà chết đi, chúng cùng nhau trở về “làm yêu làm quái” và “hễ ai động đến cành lá cây gạo thì

dao gẫy, rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được” [117,tr 35]. Năm Canh Ngọ (1330), niên hiệu Khai

Hựu nhà Trần, một đạo sĩ thấy cảnh ấy đã ra tay cứu giúp: “Đạo nhân họp với người làng, lập một

đàn tràng cúng tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn

một đạo đốt ở giữa giời; đoạn phát to lên rằng: Những tên dâm quỷ càn dỡ đã lâu, nhờ các thần

linh, trừ loài nhơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành” [117,tr 36]. Đó còn là khả năng

biết trước được mọi việc và giúp đỡ người nho sĩ để họ tránh được những tai ương, phiền toái: “Ông

làm tể tướng, kể thì không có lỗi lầm gì. Chỉ có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này ghét

người khác. Nay thì sự thù oán đã sâu cay lắm, hồn oan đã đầy dẫy ở ngoài đường rồi” [117,tr 44].

Đạo sĩ thường là những người có thể hóa thân thành người khác. Đó có thể là người “khăn cũ giầy

rách, ăn mặc lôi thôi đi vào” hay là lão tiều phu đốn củi, người giả dạng đi xem bói. Dù xuất hiện ở

dạng nào họ cũng có thể trừ được yêu ma: “Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền

ngã bổ nhào xuống đất thành ra một đốt xương trắng” [117,tr 125]. Như vậy điều đầu tiên có thể

thấy ở nhân vật này là khả năng diệt trừ yêu ma của họ. Đây là công việc không phải bất cứ ai cũng

có thể làm được.

Không chỉ đề cập đến tài năng của các đạo sĩ, các tác giả còn ngợi ca đức độ của họ. Đó là sự vô

tư, không tính toán lợi lộc với nhân dân: “Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân

nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả” [1177,tr 37]. Đó cũng là cách hành

xử của vị đạo nhân vì tình nghĩa mà ra lời khuyên ngăn Thiên Tích chứ không vì vàng bạc: “Đạo

nhân nói như vậy đến mấy nghìn lời, đều ngụ cái ý khuyên răn cả. Ông Dương rất vui vẻ nghe theo.

Sáng hôm sau trong lúc lâm biệt, ông đem 10 đĩnh vàng tốt để tiễn chân. Đạo nhân cười mà rằng:

Hà tất như thế để làm gì! Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành, để tôi khỏi trở lại gặp ông lần nữa,

đó tức là ông đã cho cố nhân nhiều lắm” [117,tr 45]. Là đạo nhân đi đây đi đó trừ yêu ma cứu

người, nhân vật được miêu tả thường không mang màu sắc dục vọng. Họ gắn liền với hình ảnh xuất

hiện trừ bạo xong rồi lại phất áo ra đi, không màng gì đến ơn nghĩa: “Lũ mày đắm đuối, nghiệp

chướng nặng nề, biết thủa nào thôi! Sao không rửa ruột đổi lòng, quay về đường chính. Ta sẽ tâu

lên Thượng Đế, tẩy hết những oan hồn đi cho. Chúng quỷ nghe nói đều sung sướng nhảy nhót rồi

trong chốc lát tan giãn đi cả. Ông Dương khẩn khoản khuyên mời xe tiên giáng xuống để được hỏi

han mọi việc sau, nhưng trong thoắt chốc đã không thấy gì nữa” [117,tr 46]. Họ luôn thiên về đời

sống tinh thần, cốt sống cho tâm hồn mình thanh thản, không thấy xấu hổ với cuộc đời. Họ sống tiêu

dao cùng với thiên nhiên: “Trong am đặt một cái giường mây, trên tường để đàn sáo và chiếc gối



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

×