Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 273 trang )
Mỏ khai thác than lộ
thiên của Công ty than
Cọc Sáu
Giếng nghiêng ở Công ty
than Giáp Khẩu
Điểm khai thác than “thổ
phỉ” kích thước khoảng
1,5mx1,5m, sâu khoảng
30m
70
Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam cũng đã thử
nghiệm trồng cây xanh phủ xanh "núi chết". Nhiều tỷ
đồng đã được đầu tư, song cây chỉ sống lay lắt được vài
năm rồi tàn lụi.
Nguy cơ từ "núi" xít, "sông" thải:
Với sản lượng khai thác than nguyên khai hơn 40 triệu
tấn năm, mỗi năm TKV thải ra ít nhất là 100 triệu m3
chất thải rắn như đất, đá, xít. Đây là nguyên nhân
khiến Quảng Ninh là địa phương duy nhất có rất nhiều
"núi chết" cao ngất ngưởng, tồn tại hàng chục năm,
nhưng không loại cây cối nào sống nổi, đủ để trở thành
mối đe dọa về sạt lở, vùi lấp sông suối, công trình, nhà
cửa vùng sản xuất và tính mạng người dân. Trên cả
"đe dọa", tại khu vực khai thác than lộ thiên thuộc thị
xã Cẩm Phả thường xuyên xảy ra các vụ sạt lở núi thải
gây hậu quả rất nghiêm trọng về người và tài sản.
Nguyên nhân là do cao trình của các "núi thải" không
được xử lý cắt tầng, che chắn đúng quy trình kỹ thuật.
71
Tại các vùng khai thác theo công nghệ hầm lò, theo các cứ liệu lưu
trữ của chính tập đoàn TKV cho thấy, trải qua nhiều thập kỷ, hầu
như chỉ có mở các đường lò mà không hề nghĩ tới chuyện hoàn thổ
sau khi lò hết khả năng khai thác than. Theo đó, có thể hình dung
dưới lòng đất là chằng chịt, xiên chéo những đường lò mới, cũ đan
xen nhau. Đây chính là nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn bất ngờ
như sập lò, bục túi nước, nổ khí metal năm nào cũng xảy ra. Hậu
quả là hàng chục thợ lò bị vùi lấp, chết cháy, chết ngạt.
Ngoài chất thải dạng khối còn có nước thải chứa nhiều hoá chất
độc hại. Theo Cục BVMT, tổng lượng nước rửa trôi bề mặt và nước
thải hầm lò trong khai thác than khoảng 20-25 triệu m3/năm, hầu
hết không được xử lý trước khi thải ra môi trường. Nước thải từ
các bãi thải tại mỏ than Hà Lầm có hàm lượng BOD vượt 5,7 lần,
COD vượt 5,3 lần, TSS vượt 3,9 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Tại mỏ Mông Dương, hàm lượng Sunfua vượt 1,9 lần, TSS vượt
2,0 lần; mỏ Khe Chàm có hàm lượng Mangan (Mn) vượt 2,8 lần;
mỏ Dương Huy có hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) vượt 15,6 lần
TCCP. Những chất độc hại này được xác định là "sát thủ" tàn phá
môi trường, gây ô nhiễm môi trường biển vịnh Hạ Long. Nguy
hiểm hơn, chúng có thể xâm thực gây nhiễm độc nguồn nước phục
vụ sinh hoạt và sản xuất.
72
Những "ví dụ" về hoàn nguyên
Mỏ của Công ty Than Cọc Sáu là một trong những vùng trọng điểm về
khai thác than lộ thiên. Sau hàng chục năm khai thác, đến nay độ sâu
lòng moong đã ở mức - 300m so mới mực nước biển. Tương ứng với đó,
một lượng chất thải như đất đá, xít, xỉ thải ra khoảng 30 triệu m3/năm,
đủ để hình thành nhiều "núi thải" thuộc loại to nhất, cao nhất Quảng
Ninh. Nhằm giảm bớt tính nguy hiểm, TKV đã chỉ đạo đơn vị này thực
hiện đổ thải theo "quy hoạch", theo "thiết kế" đã được phê duyệt hàng
năm của TKV. Các mức tầng thải có chiều cao tầng từ 25-30m theo
trình tự từ dưới lên để hạn chế sự trôi lấp và giảm lượng bụi phát sinh
các khu vực đổ thải làm ảnh hưởng tới môi trường.
Đặc biệt, các hộ chiếu đổ thải đều được thiết kế trên cơ sở đảm bảo
thoát nước, hạn chế tụt lở, trôi lấp và ít ảnh hưởng đến các vùng lân
cận. Riêng với bãi thải khu vực Khe Rè (đã từng bị vỡ đập làm vùi lấp
nhà dân), đã đầu tư xây dựng hệ thống đập chắn đất số 4 đảm bảo an
toàn cho khu vực dân cư phường Cửa Ông, đang tiến hành đổ hoàn
chỉnh các phân tầng đúng giới hạn để hoàn nguyên.
Nhằm hạn chế ảnh hưởng của nước thải đến môi trường, thời gian qua,
công ty đã tổ chức bơm chuyển tải 2 cấp. Tuy vậy, cho đến nay cũng
chưa có cấp thẩm quyền khẳng định về tính hiệu quả, tính bền vững
rằng môi trường ở Cẩm Phả từ nay sẽ không còn bị đe dọa.
73
Ở một số bãi thải khác, TKV cũng đã thử nghiệm trồng
cây xanh phủ xanh "núi chết". Nhiều tỷ đồng đã được
đầu tư, song cây chỉ sống lay lắt được vài năm rồi tàn lụi.
Tại Công ty Than Nam Mẫu, TKV xác định sẽ xây dựng
quy trình chuẩn về việc khai thác than bằng công nghệ
"ướt", gắn liền với công nghệ tái tạo, hoàn nguyên môi
trường. Nói khái quát, việc khai thác than tại đây sẽ
không theo cách làm truyền thống. Tất cả đều dùng nước,
nước để khoan than, lấy than, rửa than rồi lọc nước để
tuần hoàn, lọc nước để trả về với môi trường tự nhiên.
Điều băn khoăn không phải chi phí đầu tư cho công nghệ
này là những con số quá lớn lao. Cái chính là tính hữu
dụng, tính đồng bộ và trữ lượng nước nguồn liệu có đủ để
đáp ứng đòi hỏi của công nghệ?
Song, những nỗ lực như thế chưa đủ, môi trường sống,
môi trường tự nhiên tại các vùng khai thác than vẫn nhức
nhối từng ngày, vì không thể tốt hơn chỉ bằng những việc
làm mang tính... ví dụ
74
2. Dầu và khí đốt:
•
Khai thác trên thềm lục địa gây lún đất, ô nhiễm dầu đối với đất, ô nhiễm không khí, nước;
•
Khai thác trên biển gây ô nhiễm biển;
•
Chế biến dầu gây ô nhiễm dầu và kim loại nặng cho môi trường nước và đất khu vực;
•
Đốt dầu khí tạo ra các chất thải khí tương tự như đốt than.
75
Theo Hội đồng nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ (NRC)
Hàng năm có khoảng 3,2 triệu tấn dầu làm ô nhiễm
biển từ các nguồn khác nhau. Trong đó:
• 30% (khoảng 960.000 tấn) từ các cơ sở công nghiệp
và dân cư đô thị;
• 22% từ các tàu chở dầu;
• 13% từ các vụ tai nạn tàu chở dầu;
• 8% là do ô nhiễm dầu tự nhiên từ các đứt gãy của vỏ
Trái Đất;
• 2% là do hoạt động khai thác dầu khí trên biển;
• Còn lại là từ các nguồn khác.
76
Vịnh Hạ Long ô nhiễm dầu nặng nhất cả nước
Theo Báo cáo hiện trạng ô nhiễm vùng ven biển Việt Nam,
vùng nước Vịnh Hạ Long được đánh giá là có mức độ ô
nhiễm dầu nặng nhất.
Theo đó, vùng nước Cảng Cái Lân có thời điểm hàm lượng
dầu trong nước biển đạt tới 1,75mg/l gấp 6 lần TCVN và gấp
hàng chục lần tiêu chuẩn ASEAN, có đến 1/3 diện tích mặt
vịnh thường xuyên có hàm lượng dầu từ 1 đến 1,73 mg/l.
Hàm lượng dầu trong trầm tích ven bờ hai bên Cửa Lục đạt
mức độ cao nhất 752,85mg/kg.
Bằng mắt thường, có thể thấy, tại Cảng tàu Du Lịch Bãi
Cháy, âu tàu Tuần Châu, các khu neo đậu tàu du lịch ở các
điểm tham quan du lịch trên Vịnh, khu neo đậu tàu Vụng
Đâng, Lán Bè, Bến Đoan, cảng xăng dầu B12, cảng Cái Lân,
khu công nghiệp đóng tàu Giếng Đáy,v.v.. đều thường xuyên
có váng dầu loang rộng trên mặt biển.
77