Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.56 KB, 41 trang )
cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không những thức đẩy thươg mại 2 chiều
giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Vịêt
Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác.
Sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, 1 số nhà đầu tư như công ty
bánh kẹo Kinh Đô đã đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ trọng vốn
đầu tư thực hiện của Vịêt Nam tại Hoa Kỳ chỉ chiếm gần 1% tổng đầu tư thực
hiện ra nước ngoài của Vịêt Nam, và vốn đăng ký chỉ chiếm 3% trong tổng số
vốn đăng ký xuất khẩu tư bản của Vịêt Nam. Như vậy thực tế cho thấy việc
đầu tư vào Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Vịêt Nam còn rất ít, chưa đáng kể.
Trong khi, đầu tư vào Hoa Kỳ là 1 trong những cách để thâm nhập vào
thị trường Hoa Kỳ và các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể tận dụng thêm cơ hội
đầu tư tại nước này. Con số thống kê cho thấy dường như các doanh nghiệp
Vịêt Nam chưa tận dụng hết các cơ hội đầu tư mà mới chỉ tận dụng cơ hội
xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn chung thị trường Hoa Kỳ là thị trường lớn và
việc thực hiện đầu tư tại Hoa Kỳ sẽ giúp doanh nghiệp Vịêt Nam tạo thế đứng
vững chắc trên thị trường này. Kinh nghiệm của các nước khác đã chỉ rõ điều
này. Như hãng Honda của Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều vào các nhà máy lớn
ở Hoa Kỳ để không chỉ xuất khẩu xe hơi sang Hoa Kỳ mà còn coi đây là 1
trung tâm sản xuất của mình phục vụ cho thị trường Hoa Kỳ và các nước
khác. 1 ví dụ khác mà các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể học hỏi , đó là
trường hợp hãng Haier của trung Quốc. Hãng này đã coi đầu tư vào Hoa Kỳ
là 1 cách làm có hiệu quả để củng cố vị thế của hãng tại Hoa Kỳ và là cách để
tránh các vụ kiện bán phá giá. Do đó các doanh nghiệp Vịêt Nam cần tìm hiểu
kỹ hơn cơ hội đầu tư vào Hoa Kỳ theo cam kết của hiệp định.
A Những cơ hội:
Doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến
14
khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều kiện đó đã mở ra cho các
doanh nghiệp Vịêt Nam cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu
tư vào những nơi có khả năng mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Điểm đến của
đầu tư không bị bó hẹp trong khuôn khổ địa lý một quốc gia mà được mở
rộng ra các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới .
-
Các doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ.
Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản đầu tiên trong lộ
trình xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng để thực sự tồn tại lâu dài tại thị
truơng các nước trên thế giới, doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi
nhánh ở nước ngoài thông qua các hình thức như doanh nghiệp liên doanh
hay doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành công và lớn
mạnh của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Vịêt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các
sản phẩm của Vịêt Nam bước đầu nhận được sự đánh giá khá cao của người
tiêu dùng nước ngoài. Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay, cùng với việc các quốc gia đặc biệt là các nước phát triển
thường sủ dụng những biện pháp thương mại rất tinh vi để hạn chế khả nâng
xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước họ, thì xuất khẩu tư
bản trở thành hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ, tạo thế vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của các chi
nhánh và công ty mẹ ở trong nước.
- Doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất
của nước ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình.
Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất
nhất định và tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ
bản khiến cho doanh nghiệp của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia
khác nhằm khai thác nguồn lực của nước đó để phát triển. Đồng thời cùng với
quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của mỗi doanh nghiệp. Những
15
lợi thế sẽ không đem lại lơị nhuận một khi chúng không được triển khai trong
thực tiễn.
- Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các thị
trường quốc tế về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có điều kiện tiếp thu
công nghệ mới, hiện đại hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh
nghiệp.
-
Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về
luật pháp và ý thức chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng cạnh tranh công
bằng trên trường quốc tế và cả ở trong nước.
B Những thách thức.
Trở thành thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
rất nhiều cơ hội mới để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh đó cho các
doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường
nội địa cho các nước. Đây là thách thức trước tiên, bởi cả nước đang có số
lượng rất đông, hơn 230.000 doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vừa và nhỏ,
năng lực cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành
nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt
Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh
thay đổi. Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những doanh nghiệp nào trước
đây dựa dẫm vào sự hỗ trợ, ưu đãi của chính sách thì nay buộc phải vươn lên,
tự đứng bằng hai chân của mình...
Các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng
lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hút lao động, nhất là lao động có
năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp
trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm “chiêu hiền
đãi sĩ”, để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý.
16
Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống
pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển
quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ
được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Thực tế đã cho thấy, khi
chúng ta chuyển quản lý trực tiếp việc xuất khẩu gạo cho hiệp hội thực hiện
đã tạo điều kiện để mọi thành phần đều có thể xuất khẩu gạo, thông qua sự
quản lý của hiệp hội. Xu thế này tạo nên sự hợp tác, liên kết rất quan trọng liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và cùng phát triển.
Nếu biết và quyết tâm vượt qua tất cả những thách thức thì chúng ta sẽ
phát triển. Nhiều người cho rằng, thách thức cũng là cơ hội mới, cuộc sống
không có thử thách thì không còn là cuộc sống. Gia nhập WTO đem lại cho
chúng ta nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Có tận dụng được cơ hội, có vượt
qua đựơc thách thức, biến thách thức thành cơ hội hay không hoàn toàn do sự
đổi mới trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành, do sự
năng động của từng doanh nghiệp. Nhà nước mở cửa, có chính sách thu hút
đầu tư, nhưng các địa phương và các doanh nghiệp không tha thiết thu hút đầu
tư, thì chúng ta cũng không thể đạt mục tiêu đề ra.
Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo
đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát triển, vượt
qua đựơc thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng
của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để
phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. , Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam còn
gặp phải nhiều thách thức lớn khi thực hiên hoạt động xuất khẩu tư bản .
-
Tiềm lực tài chính của đại đa số các doanh nghiệp Vịêt Nam còn yếu
Theo kết quả điều tra về doanh nghiệp được tổng cục thống kê công bố,
tính đến cuối năm 2003, cả nước có khoảng 72.016 doanh nghiệp, với tổng
lượng vốn đầu tư là 1.709 nghìn tỷ đồng, trung bình quy mô vốn đầu tư của 1
doanh nghiệp đạt 23,73 tỷ đồng, như vậy quy mô là rất nhỏ. Tiềm lực tài
17
chính yếu là nguyên nhân chính làm lượng vốn xuất khẩu tư bản của các
doanh nghiệp Vịêt Nam chưa cao, nên sức cạnh tranh của các dự án này thấp
hơn nhiều so với doanh nghiệp bản địa, cũng như doanh nghiệp đến từ các
quốc gia khác. Tiềm lực tài chính yếu làm cho các doanh nghiệp chưa xây
dựng được chiến lược kinh doanh dài hạn. Đa phần các dự án triển khai ở
nước ngoài hiện nay còn mang tính chất thăm dò, thời gian thực hiện dự án
ngắn. Nhiều dự án đã được bên nước ngoài cấp giấy phép nhưng không được
triển khai do phía Vịêt Nam chưa tìm được nguồn vốn thực hiện.
-
Các doanh nghiệp Vịêt Nam còn thiếu kinh nghiệm xuất khẩu tư bản .
Vịêt Nam bắt đầu chính thức cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu tư bản
kể từ năm 1999, nhưng hoạt động này mới được quan tâm đến trong vòng 2, 3
năm trở lại đây và trên thực tế có rất ít các biện pháp của nhà nước khuyến
khích cho hoạt động này. Trong khi đó một số nước trong khu vực như
Singapore, Thailand, Malaysia lại khuyến khích các doanh nghiệp nước mình
xuất khẩu tư bản từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Vì vậy doanh nghiệp các
quốc gia đó đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế và hiện
đang là chủ đầu tư lớn của khu vực. Việc thiếu kinh nghiệm trong triển khai
dự án ở nước ngoài khiến cho các nhà đầu tư Vịêt Nam lúng túng và gặp
nhiều khó khăn.
- Năng lực cạnh tranh tổng hợp cả các doanh nghiệp Vịêt Nam còn thấp
khiến khả năng xuất khẩu tư bản chưa cao.
Ngoài tiềm lực tài chính yếu, doanh nghiệp Vịêt Nam còn bộc lộ một số
hạn chế như mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất chưa cao, hệ
thống đại lý phân phối sản phẩm mỏng, chưa tạo dựng được thương hiệu có
danh tiếng… nhũng tồn tại này.khiến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Vịêt Nam xét về tổng thể được các tổ chức quốc tế đánh giá không
cao. Năng lực cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp là nguyên nhân chính
khiến năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế Vịêt Nam thấp. Theo công
bố của diễn đàn kinh tế thế giới, năng lực cạnh tranhh của cả nền kinh tế Vịêt
18
Nam đứng ở thứ hạng thấp và thiếu ổn định, năm 2000 là thứ 53/59, năm
2001 là 62/75, năm 2002 là 65/80. Năng lực cạnh tranh thấp khiến cho hiệu
quả kinh doanh cuả doanh nghiệp Vịêt Nam cả trong và ngoài nước chưa cao.
2 Cơ chế chính sách khuyến khích xuất khẩu tư bản của Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, thì các quốc gia đều phải
quan tâm đến hoạt động đầu tư. Tuy nhiên với các nước đang phát triển trong
đó có Vịêt Nam thì vấn đề quan tâm là làm sao có thể thu hút được nhiều vốn
đầu tư nước ngoài nhất và ít quan tâm hỗ trợ đến vốn đầu tư ra. Trong khi đó
thực tiễn chứng tỏ rằng hoạt động xuất khẩu tư bản càng tăng thì thị trường
sản xuất kinh doanh càng được mở rộng, cơ hội kinh doanh càng tăng và làm
động lực cho nền kinh tế trong nước phát triển. Do đó ở Vịêt Nam, tư duy về
hoạt động xuất khẩu tư bản ngày càng thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý
hơn, đánh giá đúng mức hơn tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu tư bản ,
điều đó được thể hiện qua đường lối chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ
phía nhà nước.
Trước hết là ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động
xuất khẩu tư bản . Bao gồm các chính sách như: chính sách tài chính- tiền tệ,
chính sách xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối… các chính sách này liên
quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư, nếu các nhà đầu tư nhận thấy
rằng đầu tư trong nước mang lại nhiều hiệu quả hơn so với xuất khẩu tư bản
thì các nhà đầu tư sẽ không thực hiện hoạt động xuất khẩu tư bản nữa, mà
thay vào đó sẽ tập trung đầu tư trong nước, khả năng xuất khẩu , khả năng
nhập khẩu cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Sự thay đổi các chính sách tài chính - tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc
ngược lại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp.
Khi chuyển chính sách thắt chặt tiền tệ- nới lỏng tài chính sang chính sách nới
lỏng tiền tệ - thắt chặt tài chính sẽ làm cho mức lãi suất thực tế giảm, do đó
làm cho đầu tư trong nước trở nên khó khăn hơn và do đó sẽ khuyến khích
xuất khẩu tư bản . Mặt khác sự thay đổi chính sách tài chính -tiền tệ có ảnh
19
hưởng đến lạm phát, qua đó tác động làm giảm xuất khẩu tư bản . Khi lạm
phát cao, đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, như vậy cùng 1 đồng
tiền ở trong nước sẽ mua được ít dịch vụ hơn ở nước ngoài và do đó xuất
khẩu tư bản sẽ hạn chế và ngược lại.
3 Tình hình xuất khẩu tư bản các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua
A Xuất khẩu tư bản được cấp giấy phép năm 1989 - 2005
Đơn vị: triệu USD
Stt
Năm
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
TỔNG SỐ
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số DA ĐTRNN
154
1
3
3
4
5
3
2
10
15
13
15
26
17
37
VĐT
RNN
621.8
0.6
0.0
4.0
5.4
0.7
1.3
1.9
12.3
6.9
7.7
172.8
28.2
11.6
368.5
Tỷ trọng
Số DA FDI
Số Vốn FDI
Tổng VĐT
VĐTRNN/
6106
67
107
152
196
274
372
285
327
391
555
808
791
811
970
43209.8
525.5
735.0
1291.5
2208.5
3037.4
4188.4
5099.0
2565.4
2838.9
3142.8
2998.8
3191.2
4547.6
6839.8
43831.6
526.1
735.0
1295.5
2213.9
3038.1
4189.7
5100.9
2577.7
2845.8
3150.5
3171.6
3219.4
4559.2
7208.3
TVĐT(%)
1.419
0.114
0.000
0.309
0.244
0.023
0.031
0.037
0.477
0.242
0.244
5.448
0.876
0.254
5.112
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Qua bảng số liệu về tình hình xuất khẩu tư bản của Việt Nam trong
những năm qua, chúng ta thấy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày
càng có xu hướng gia tăng cả về số dự án đầu tư và qui mô vốn đầu tư. Năm
2005 số dự án xuất khẩu tư bản nhiều nhất trong những nămqua là 37 dự án,
và cũng chiếm nhiều số vốn đăng ký nhất là 368.5 triệu USD, tiếp đến là năm
2003, có 26 dự án được cấp giấy phép đầu tư ở nước ngoài, với số vốn là 28.2
triệu USD, năm 2004 với 17 dự án, với số vốn đầu tư đăng kí là 11.6 triệu
USD . Như vậy, trong mấy năm gần đây tình hình xuất khẩu tư bản ngày
càng gia tăng cả về số lượng dự án lẫn qui mô vốn đầu tư cho dự án. Bên cạnh
20