Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 91 trang )
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
Mật độ biểu thị mức độ và khả năng cạnh tranh nội tại quần thể, cũng như
thể hiện vai trò của quần thể trong quần xã, tức là mức độ tác động của quần thể
đối với các quần thể lân cận nó.
- Đại lượng “mật độ“ cho phép đánh giá mức độ tác động và khả năng đáp ứng
của các yếu tố môi trường đối với quần thể
- Mật độ cũng nói lên mức độ thích nghi của quần thể với điều kiện hiện tại
của môi trường. Môi trường sống của quần thể luôn ln biến đổi, do đó mật độ của
quần thể như phản ứng của quần thể đối với những biến đổi ấy cũng bị biến đổi theo
trong những giới hạn nhất định.
- Trạng thái cân bằng của quần thể: là trạng thái số lượng cá thể của quần
thể ở trạng thái ổn định.
Cơ chế duy trì trạng thái cân bằng là cơ chế điều hòa mật độ quần thể trong
trường hợp dư thừa hay thiếu hụt dân số. Cơ chế này làm thay đổi tốc độ tăng trưởng
của quần thể bằng cách tác động lên tỷ lệ sinh đẻ và tỷ lệ tử vong do các yếu tố cạnh
tranh sinh học.
- Phương thức điều hòa khắc nghiệt: gây ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong trong
quần thể bằng hình thức tự tỉa thưa hay ăn lẫn nhau.
- Phương thức điều hòa mềm dẻo: ảnh hưởng lên tỷ lệ sinh sản, tỷ lệ tử vong
và sự phát triển thơng qua các hình thức tiết chất hóa học, làm rối loạn chức năng
sinh lý, làm giảm khả năng sinh sản của cá thể do cạnh tranh, gây tập tính phát tán,
tách đàn, di cư...
Các phương pháp nghiên cứu mật độ:
1. Kiểm kê tổng số: Phương pháp này được áp dụng đối với các sinh vật lớn, hoặc
đối với các sinh vật dễ nhận biết, hoặc đối với các sinh vật sống thành tập đồn.
2. Phương pháp lấy mẫu theo diện tích: Phương pháp này gồm việc thống kê và cân
đong các sinh vật trong một số khu vực tương ứng hoặc trong các mặt cắt có
kích thước thích hợp để xác định mật độ trong diện tích nghiên cứu .
3. Phương pháp đánh dấu và bắt lại: áp dụng đối với các động vật hiếu động hoặc
côn trùng. Người ta bắt, đánh dấu và thả ra một phần nhất định của quần thể, và
sau đó xác định tỷ lệ các cá thể đánh dấu bị bắt lại, trên cơ sở đó đánh giá số
lượng của toàn bộ quần thể.
-
2.2.2. Cấu trúc tuổi (thành phần tuổi)
QT có nhiều nhóm tuổi chúng có quan hệ với nhau rất mật thiết về mặt sinh
học, tạo nên cấu trúc tuổi của quần thể.
Cấu trúc tuổi của quần thể là một đặc tính quan trọng ảnh hưởng đến cả khả năng
sinh sản và mức tử vong của quần thể đó.
Tương quan của các nhóm tuổi khác nhau trong quần thể quyết định khả năng sinh
sản của chúng ở thời điểm hiện tại và cho thấy điều gì sẽ xảy ra đối với quần thể đó trong
tương lai.
Cấu trúc tuổi của QT được xem là 1 hệ thống các yếu tố cấu trúc nội tại của QT có
phản ứng khác nhau đối với những biến động của MT sống, duy trì sự ổn định cho QT
11
Bài giảng sinh thái mơi trường 4-2013
+) Khi nguồn sống suy giảm, khí hậu xấu đi thì tỷ lệ con non và già giảm. Do vậy
nhóm tuổi trung bình còn lại được thừa hưởng nguồn thức ăn nên nhanh chóng khơi phục
số lượng của mình, quần thể được duy trì.
++) Khi mơi trường thuận lợi, nguồn thức ăn tăng lên thì tỷ lệ nhóm tuổi trẻ tăng ,
nên bổ sung nhiều cho tuổi sinh sản làm cho kích thước quần thể tăng.
Theo Nikolski (1974) thì cấu trúc tuổi khơng phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà
mang tính thích nghi rõ rệt. Nói chung cấu trúc tuổi thay đổi theo hướng nâng cao vai trò
của nhóm trẻ khi điều kiện thuận lợi và ngược lại khi gặp điều kiện khó khăn. Tức là cấu
trúc tuổi của QT như là một hệ thống tự điều chỉnh, thích nghi với biến đổi của MT.
Ảnh hưởng quan trọng nhất của cấu trúc tuổi đến quần thể là ảnh hưởng đến tỷ lệ
sinh và tỷ lệ chết. Vì thế tương quan của các nhóm tuổi sẽ quyết định đến khả năng sinh
sản của quần thể trong từng thời điểm và cho thấy điều gì sẽ xảy ra với nó trong tương lai.
Bodenheimer (1938) khi nghiên cứu về cấu trúc tuổi của một số quần thể đã sử
dụng khái niệm tuổi sinh thái để chỉ thời gian trước sinh sản (SS), sinh sản và sau
sinh sản
- Nhóm trước sinh sản là nhóm chưa có khả năng sinh sản, là lực lượng bổ sung cho
nhóm sinh sản
- Nhóm đang sinh sản là lực lượng tái sản xuất của QT. Tuỳ từng lồi mà nhóm này
sinh sản một lần hay nhiều lần trong đời
- Nhóm sau sinh sản là những cá thể khơng còn khả năng sinh sản nữa
Thời gian của các nhóm tuổi so với thời gian sống rất khác nhau ở các lồi. Theo thời
gian thì các nhóm tuổi trên chuyển hóa cho nhau, nhóm trước sinh sản thành nhóm sinh
sản, nhóm sinh sản chuyển thành nhóm sau sinh sản
Tháp tuổi: Nếu chồng 3 nhóm tuổi kế tiếp lên nhau ta có tháp tuổi. Từ tháp tuổi ta
dễ dàng nhận thấy trạng thái phát triển của QT.
Sau SS
SS
Tr SS
Đang phát triển
Sau SS
Sau SS
SS
Tr SS
SS
Tr SS
Ổn định
Suy thoái
Thành phần tuổi cho biết xu hướng phát triển của quần thể, bởi vì trong từng
giai đoạn phát triển, quần thể có những nhóm tuổi chiếm ưu thế.
“Thường trong các quần thể phát triển nhanh thì có tỷ lệ cá thể non chiếm ưu thế;
trong các quần thể ổn định thì sự phân bố của các nhóm tuổi tương đối đồng đều hơn và
trong các quần thể có số lượng đang suy giảm thì gồm nhiều cá thể già hơn”
Nói chung trong quần thể tự nhiên có xu hướng ở dạng ổn định. Dạng ổn định
có thể bị thay đổi tức thời do tỷ lệ tử vong cao (thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, săn
bắt..), do sự phát tán một số lượng lớn cá thể đi nơi khác, hoặc do sự xâm nhập các
12
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
cá thể của những quần thể khác vào, hay tăng tỷ lệ sinh sản đột biến.Tuy nhiên quần
thể có khả năng tự điều chỉnh để trở về trạng thái ổn định.
Sự phục hồi số lượng cá thể phụ thuộc vào lồi có chu kỳ sống ngắn hay dài
và đặc điểm sinh sản của các loài đó:
- Động vật có chu kỳ sống ngắn có ít nhóm tuổi (tuổi thọ trung bình của
quần thể khơng cao), phát dục sớm, tỷ lệ sinh lớn, tỷ lệ tử vong cao nên hàng năm số
lượng cá thể của quần thể giao động rất lớn. Song, khả năng phục hồi của quần thể
nhanh.
Động vật có chu kỳ sống dài có nhiều nhóm tuổi (tuổi thọ trung bình của quần
thể cao), phát dục chậm, tỷ lệ sinh sản và tỷ lệ tử vong thấp nên hàng năm số lượng
cá thể của quần thể ít dao động. Song khả năng phục hồi quần thể lại chậm.
2.2.3. Thành phần giới tính (tỷ lệ giới tính)
Thành phần giới tính được hiểu là tỷ lệ đực cái. Trong tự nhiên, tỷ lệ giới tính
thường là 1: 1. Tỷ lệ này phụ thuộc vào điều kiện MT, thay đổi theo mùa và phụ thuộc vào
loài cũng như các giai đoạn khác nhau trong đời sống của lồi
- Thành phần giới tính mang đặc tính thích ứng của quần thể đối với các điều kiện
sống của môi trường, đảm bảo khả năng sinh sản và hiệu quả sinh sản của quần thể
trong điều kiện hiện tại của mơi trường và vai trò của nó trong quần xã.
- Ở một số lồi tỷ lệ giới tính thể hiện khả năng tự điều chỉnh số lượng để thích ứng
với biến đổi của các điều kiện MT. Đặc biệt ở cơn trùng và một vài lồi thú nhỏ tỷ lệ
đực cái thay đổi tuỳ thuộc vào mật độ quần thể:
+) Khi mật độ lớn, sự cạnh tranh cùng loài diễn ra quyết liệt, lúc này cơ chế điều tiết về
mặt sinh lý sẽ được tăng cường dẫn đến thay đổi tỷ lệ giới tính theo hướng đực nhiều
hơn cái
++) Khi mật độ nhỏ, thì các thể cái nhiều hơn cá thể đực
2.2.4. Sự phân bố cá thể trong quần thể
2.2.4.1. Sự phân bố không gian của quần thể
Tùy thuộc vào đặc tính của lồi, tính chất mối quan hệ của quần thể với các
quần thể lân cận, đặc điểm của môi trường vật lý, sự phân bố các cá thể trong quần
thể có thể là đồng đều, ngẫu nhiên hay tập hợp thành nhóm (hình 3). Sự phân bố cá
thể cũng thay đổi tùy thuộc vào thời kỳ phát triển của quần thể, tập tính sinh dục
- Sự phân bố đồng đều (Regular distribution) thường gặp ở những nơi mà MT
có tính đồng nhất cao, giữa các cá thể có sự cạnh tranh gay gắt về dinh dưỡng, ánh
sáng hay các nhu cầu sống khác, có mâu thuẫn đối kháng và trong các quần thể nhân
13
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
tạo, ở đó mật độ và khoảng cách do con người bố trí và chủ động điều khiển. Các quần
thể với kiểu phân bố này có ưu điểm nổi bật là hạn chế tối đa sự cạnh tranh, tận
dụng cao nhất các yếu tố ngoại cảnh cho sự phát triển chung của cả nhóm.
- Phân bố nhóm (Cumped distribution) Trong thiên nhiên, phổ biến là sự hình
thành các nhóm của các cá thể cùng loài. Lý do chủ yếu của dạng phân bố này là sự
phân bố không đồng đều của các yếu tố môi trường trong không gian và theo thời
gian, hay do đặc tính của lồi trong q trình sống có nhu cầu khác nhau trong các
giai đoạn phát triển, các cá thể có xu hướng họp thành nhóm. Nếu các cá thể trong
quần thể có xu hướng hình thành nhóm với kích thước nhất định thì phân bố nhóm
có thể gần với phân bố ngẫu nhiên.
- Phân bố ngẫu nhiên (Random distribution) Sự phân bố ngẫu nhiên có thể tìm
thấy trong các mơi trường có tính đồng nhất cao và sinh vật khơng có xu thế sống
tập trung. Phân bố ngẫu nhiên, cơ sở của các phương pháp thống kê tiêu chuẩn được
biểu thị bằng đường cong chuẩn.
Nói chung nếu tỷ lệ của phương sai với trung bình bằng 1 thì phân bố ngẫu
nhiên, nhỏ hơn 1 là phân bố đều và lớn hơn 1 là phân bố nhóm
2.2.4.2. Qui luật quần tụ (nguyên tắc Allee)
Khi nghiên cứu sự phân bố của các cá thể trong quần thể, Allee (1949) đã đưa
ra qui luật phân bố về quần tụ (Aggregatus)
Trong tự nhiên, phần lớn các quần thể sớm hay muộn đều hình thành nên các
quần tụ của các cá thể. Các quần tụ xảy ra như phản ứng của quần thể với những
biến đổi của ngoại cảnh.
Biểu hiện thích nghi ấy với các điều kiện của môi trường (bao gồm các yếu tố
vô sinh và hữu sinh) được thể hiện bằng 4 đặc điểm (4 nguyên nhân) sau:
- Do sự khác biệt cục bộ của điều kiện mơi trường ở khu vực phân bố. Các
nhóm cá thể trong q trình sống có nhu cầu về các yếu tố sống khác nhau, có thể
hình thành các nhóm nhỏ.
- Do sự thay đổi có tính chất chu kỳ của các điều kiện thời tiết theo ngày
đêm hoặc theo mùa. Quần tụ có khả năng tác động lên các yếu tố của vi mơi trường
làm biến đổi nó theo hướng thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cả nhóm nói
chung. Có thể xem đó là hình thức biến đổi để thích ứng một cách tích cực của quần
thể sinh vật.
- Do đặc tính sinh sản và tập tính sinh dục của lồi.
- Do sự hấp dẫn về mặt xã hội ở động vật bậc cao.
Ưu thế của quần tụ
- Nói chung quần tụ có khả năng làm giảm bề mặt tiếp xúc của nhóm với
mơi trường bên ngoài theo tỷ lệ khối.
- Tăng cường khả năng tự vệ của nhóm khi bị các sinh vật khác tấn công.
14
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
- Tăng cường khả năng tác động tích cực làm
thay đổi các yếu tố của vi môi trường vật lý,
đặc biệt là các yếu tố khí hậu thuận lợi cho
khả năng sống sót của nhóm. Nhất là các
nhóm ở các giai đoạn phát triển có nhu cầu
khác nhau hay các nhóm sinh sản.
- Tăng cường khả năng đề kháng với những
thay đổi bất lợi của các yếu tố môi trường.
Nguyên tắc Allee chỉ ra mức độ tập trung của các cá thể trong quần thể và được phát
biểu như sau:
“Độ quần tụ đem lại cực thuận cho khả năng sống và sự sinh trưởng của
quần thể, nó thay đổi tùy theo lồi và phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh”.
Nhược điểm của quần tụ: Tuy nhiên quần tụ dẫn đến tình trạng gia tăng cạnh tranh trong
lồi về dinh dưỡng và khơng gian sinh tồn. Nói chung sự gia tăng hay suy giảm quá mức
của quần tụ đều đem lại bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của QT
Nguyên tắc Allee có thể được minh họa bằng hai sơ đồ (hình 4).
Møc sèng sãt
(A) Chỉ số sống sót giảm dần theo kích
thước quần thể. Sự tăng trưởng và
sống sót cao nhất ở mức mật độ thấp.
(B) Khi các sinh vật có hiện tượng
quần tụ lại hoặc có hiệp tác đơn giản,
tại một mức mật độ nhất định sẽ tỏ ra
có nhiều thuận lợi nhất và có tỷ lệ sống
sót đạt cực đại. (B) cho thấy sự “dư
thừa dân số” cũng như “dân số thưa
thớt” đều là có hại.
A
B
Hình 2
MËt ®é
Quan hệ
tỷ lệ sống
sót với độ
quần tụ
Mức độ quần tụ mà
trong đó có sự phát triển và sống sót cực thuận của quần thể thay đổi theo loài và
theo điều kiện sống. Biểu hiện này thể hiện rõ nét ở các quần thể động vật.
2.2.4.3. Hiện tượng cách ly và chiếm cứ vùng sống
Khi quần tụ đẩy quần thể vào tình trạng khủng hoảng, tức là cân bằng giữa
các yếu tố hữu sinh và vô sinh bị phá vỡ, nhu cầu đối với các yếu tố sống của các cá
thể trong quần thể vượt quá khả năng đáp ứng của môi trường, sự cạnh tranh giữa cá
thể trong lồi trở nên gay gắt, thì sự cách ly và chiếm cứ vùng sống (lãnh thổ) được
tăng cường.
15
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
Mặt khác, đồng thời với quần tụ, một vài cá thể tách ra khỏi quần thể, thậm
chí ngay trong một quần thể một hoặc các nhóm cá thể hay gia đình cũng có hiện
tượng chiếm cứ một vùng lãnh thổ nào đó.
Cách ly là hiện tượng có một số cá thể trong quần thể tách ra khỏi quần thể
hay chiếm cứ một vùng lãnh thổ nào đó trong khu vực phân bố của quần thể .
Sự cách ly có thể xảy ra do những lý do sau:
i. Khả năng đáp ứng có hạn nhu cầu ngày càng tăng của các quần thể có mật độ
cao, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt các yếu tố sống.
ii. Do mâu thuẫn đối kháng trực tiếp.
iii. Do đặc tính sinh dưỡng và tính chất sinh sản của lồi, hay của các nhóm cá thể
có nhu cầu giống nhau (giới tính, tuổi).
Do sinh vật có khả năng biến đổi khơng những về mặt hình thái mà cả về tập
tính sinh học khác để thích nghi với những khác biệt của các yếu tố môi trường của
nơi ở mới so với nơi ở cũ, mà hiện tượng cách ly này thường dẫn đến sự cách ly về
mặt sinh thái. Sự cách ly về sinh thái biểu thị ở đặc tính sinh sản khác nhau. Đó là cơ
sở để hình thành nên những nòi sinh học mới (Biotype), tức là tập hợp các nhóm cá
thể trong quần thể có sai khác về đặc điểm sinh dưỡng và tính chất sinh sản.
Trong một số trường hợp cạnh tranh thức ăn dẫn đến sự phân hóa các cá thể
của một lồi thành nhiều quần thể khác nhau thích ứng với những mơi trường có
điều kiện thức ăn khác nhau.
- Bên cạnh sự cách ly về mặt sinh thái còn có sự cách ly về mặt địa lý, do kết
quả tác động tổng hợp của các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu, thổ nhưỡng...) ở các
vùng phân bố khác nhau, dẫn tới sự hình thành lên các quần thể địa lý. Sự cách ly về
mặt địa lý là cơ sở để hình thành các lồi phụ, từ đó mà phát triển thành các lồi
chính.
Sự cách ly nói chung có xu hướng làm giảm tình trạng cạnh tranh trong lồi,
tạo điều kiện duy trì năng lượng vào các thời kỳ nguy kịch, điều chỉnh dân số cơ học
một cách thích hợp với khả năng đáp ứng của mơi trường hiện tại. Do đó nó có tác
dụng ngăn ngừa tình trạng dư thừa dân số, sự cạn kiệt nguồn thức ăn dự trữ ở động
vật và các chất sinh học, nước hay ánh sáng ở thực vật.
Trong tự nhiên, cả hai hình thái quần tụ và cách ly ln tồn tại song song. Có
thể xem hai hình thái tổ chức này như hai mặt của quá trình điều chỉnh số lượng cá
thể của quần thể để tiến tới trạng thái cân bằng giữa các yếu tố hữu sinh và vô sinh
trong khu vực phân bố. Trong các quần thể tự nhiên chúng đồng thời tồn tại hoặc kế
tiếp nhau, như vậy các quần thể này đã tận dụng được ưu thế của cả hai dạng tổ chức
này.
2.2.5. Tỷ lệ sinh sản
Có thể coi tỷ lệ sinh sản là khả năng để gia tăng số lượng cá thể của một
quần thể sinh vật. Tỷ lệ sinh sản biểu thị tần suất xuất hiện cá thể mới ở bất kỳ
sinh vật nào, chúng không phụ thuộc vào phương thức sinh sản.
Trong sinh thái học người ta phân biệt các loại tỷ lệ sinh sản như sau:
16
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
Tỷ lệ sinh sản tối đa (Tỷ lệ sinh sản sinh lý): là sự hình thành số lượng cá
thể các thế hệ kế tiếp với khả năng tối đa trong điều kiện lý tưởng. Tỷ lệ sinh sản
này không chịu sự chi phối, giới hạn của các yếu tố môi trường, mà chỉ phụ thuộc
vào khả năng sinh lý của loài
Người ta vẫn sử dụng tỷ lệ sinh sản tối đa nhằm:
+ So sánh với tỷ lệ sinh sản thực tế để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố môi trường hiên tại tới sinh trưởng và phát triển của quần thể,
cũng như vai trò của quần thể đối với sự hình thành và phát triển của
quần xã nói chung.
+ Dự đốn tốc độ gia tăng của quần thể, từ đó có chiến lược tác động vào
quần thể để điều chỉnh số lượng phù hợp với điều kiện cho phép của môi
trường, không làm tổn hại tới sự phát triển của các quần thể khác.
- Tỷ lệ sinh sản tối đa giải thích sự bùng nổ dân số của các quần thể sinh
vật, côn trùng gây hại.
- Tỷ lệ sinh sản sinh thái (tỷ lệ sinh sản thực tế - tỷ lệ sinh đẻ thật): Biểu
thị sự gia tăng số lượng cá thể của quần thể trong điều kiện thực tế của môi trường.
- Đây là đại lượng biến đổi, phụ thuộc vào kích thước của quần thể, đặc
điểm của mơi trường vật lý xung quanh, cũng như mối quan hệ tương tác với các
loài khác trong quần xã theo chuỗi dinh dưỡng.
- Tỷ lệ sinh sản có thể được biểu thị dưới dạng sau:
Gọi: Nt1 là số lượng cá thể ở thời điểm t1
Nt2 là số lượng cá thể ở thời điểm t2
Số lượng cá thể mới sinh trong thời gian Δt là ΔNm
Tỷ lệ sinh sản là B = ΔNm/ Δt => Viết chính xác là: B = dNm/dt
đặt b = ΔNm/ NΔt => Viết chính xác là: b=dNm/Ndt
b gọi là tỷ lệ sinh đẻ đặc trưng - Tỷ lệ sinh đẻ trên một đơn vị QT
Sức sinh sản của quần thể không những phụ thuộc vào số trứng hoặc số con
sản sinh ra trong một lứa mà còn phụ thuộc vào số lứa đẻ trong một năm.
Tỷ lệ sinh đẻ biến đổi theo mùa
-
2.2.6.Tỷ lệ sống sót
Tỷ lệ sống sót là kết quả của tỷ lệ sinh sản và tỷ lệ chết. Gọi toàn bộ số cá
thể sinh ra trong một khoảng thời gian nhất định là 1 (xem như 100%) và gọi tỷ
lệ số cá thể chết so với số sinh ra là M, thì tỷ lệ sống sót sẽ là đại lượng (1- M),
tức là số lượng sống sót của quần thể ln nhỏ hơn hoặc bằng 1.
Thơng thường tỷ lệ sống sót được biểu thị bằng tuổi thọ của quần thể. Trong
sinh thái học, người ta phân biệt hai khái niệm tuổi thọ là: tuổi thọ sinh lý và tuổi thọ
sinh thái.
2.3. BIẾN ĐỘNG SỐ LƯỢNG CÁ THÊ CỦA QUẦN THÊ
Trong tự nhiên số lượng các cá thể của quần thể luôn luôn biến động do nhiều
nguyên nhân khác nhau:
- Những biến đổi của môi trường vật lý (nhất là khí hậu, thời tiết)
17
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
- Các mối quan hệ tương tác trong nội tại quần thể.
- Các mối quan hệ tương tác với các quần thể lân cận.
Hiện tượng biến động số lượng có thể phân biệt thành hai loại:
- Các hiện tượng biến động số lượng theo mùa, biểu hiện quá trình tự điều chỉnh
số lượng cá thể của quần thể để thích nghi với những biến đổi theo mùa của điều kiện môi
trường.
- Hiên tượng biến động số lượng theo năm:
+ Do những biến đổi của các yếu tố ngoài quần thể.
+ Do những biến đổi nội tại của quần thể.
Hiện tượng biến động số lượng xảy ra trong một thời gian ngắn, có thể tuân theo
quy luật hàm số mũ. Khi số lượng của quần thể vượt quá giới hạn của các điều kiện sống,
vượt quá khả năng đáp ứng của môi trường, sự cạnh tranh giữa các cá thể trong loài diễn ra
gay gắt, tất yếu sẽ dẫn đến sự suy giảm về mặt số lượng bằng nhiều hình thức khác nhau
như cách ly và chiếm cứ vùng sống và cũng có thể do những biến đổi sinh lý và di truyền
của các cá thể trong quần thể. Khi mật độ đạt cực đại, thỏ thường bị chết do chống.
- Ở sinh vật còn có hiện tượng biến động theo chu kỳ nhiều năm. Ví dụ thỏ rừng
cứ 9-11 năm lại đạt số lượng cực đại.
Theo Nicolsky (1965), thì bản chất của sự biến động số lượng là sự trả lời thích
nghi đối với các điều kiện cụ thể mà trong đó quần thể tồn tại:
- Sự biến động số lượng chủ yếu do tác động của các yếu tố môi trường vật lý
thường gặp ở các hệ sinh thái có cấu trúc đơn giản, số lượng các lồi trong quần xã còn
thấp, mối quan hệ giữa các lồi còn thiếu chặt chẽ,
- Sự điều chỉnh số lượng bởi các yếu tố sinh học là chủ yếu thường thấy ở các hệ
sinh thái có cấu trúc phức tạp, tức là trong các giai đoạn phát triển sau của diễn thế sinh
thái, khi tổ thành loài ngày càng đa dạng, các mối quan hệ sinh học trở nên chặt chẽ hay ở
các quần xã không bị khống chế điều chỉnh vật lý bắt buộc.
Các yếu tố tác động đến sự biến động số lượng được chia thành hai nhóm:
- Các yếu tố phụ thuộc vào mật độ: chủ yếu là các yếu tố hữu sinh (cạnh tranh, ký
sinh, thức ăn...)
- Các yếu tố không phụ thuộc vào mật độ: chủ yếu là khí hậu (bão lụt, lạnh giá...)
Có nhiều giả thuyết giải thích nguyên nhân biến động số lượng của các quần thể
như sau:
- Học thuyết khí hậu học (Bremner, Zonfer...,1930) nhấn mạnh vai trò của các
yếu tố khơng phụ thuộc vào mật độ, mà chủ yếu là các yếu tố khí hậu. Họ cho rằng chế độ
khí hậu ở các vùng địa lý có tính chất khác nhau, cho nên số lượng cá thể trong các quần
thể địa lý khác nhau có sự biến đổi khác nhau. Ở đây, yếu tố vô sinh và môi trường vật lý
là các yếu tố chủ đạo gây lên sự biến động số lượng cá thể của các quần thể sinh vật.
- Học thuyết về các yếu tố hữu sinh và giả thuyết về sự tương tác giữa các bậc
dinh dưỡng (Telenga, Friedric.., 1939): phủ nhận vai trò của các yếu tố vơ sinh đến q
trình biến động số lượng quần thể . Họ cho rằng sự thay đổi các kẻ thù tự nhiên và sự đa
dạng các mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giữa các loài trong quần xã là nguyên nhân
gây nên sự biến động số lượng. Trên cơ sở đó, một bộ phận của những người theo học
thuyết này đề xuất thuyết “dư thừa dân số “, lấy mối quan hệ giữa cạnh tranh với nguồn tài
nguyên thiên nhiên hữu hạn trên bề mặt hành tinh để giải thích nguyên nhân của sự biến
động số lượng.
18
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
- Thuyết Pradosen: Thuyết này cho rằng ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố
hữu sinh và vô sinh mới là nguyên nhân chủ đạo gây nên sự biến động số lượng quần thể.
Tuy nhiên họ đã mắc sai lầm coi quần thể như là một sinh vật độc lập, khi cho rằng sự
phát triển của quần thể tất yếu dẫn đến một hệ thống cân bằng.
- Thuyết của Naumov, Victorov, Nicoson được nhiều người thừa nhận hiện nay
cho rằng:
+ Các khu vực (như vùng nhiệt đới, vùng vĩ độ thấp) có điều kiện khí hậu ít
thay đổi, phù hợp cho sỉnh trưởng - phát triển của sinh vật, thì yếu tố quan
trọng chi phối là yếu tố phụ thuộc vào mật độ.
+ Các khu vực (như vùng ơn đới, vùng vĩ độ cao) có điều kiện khí hậu bất
thuận, ở ranh giới của lồi thì yếu tố vơ sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Định nghĩa quần thể sinh vật. Phân biệt khái niệm quần thể - loài – quần thể
địa lý - quần thể sinh thái.
2. Khái niệm mật độ quần thể. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mật độ của quần thể.
3. Phân tích để thấy rõ mật độ, thành phần tuổi, giới tính, phân bố khơng gian
như khả năng tự điều chỉnh để thích nghi với biến đổi của mơi trường.
6. Tại sao nói quần tụ và cách ly là hai mặt của quá trình điều chỉnh số lượng để
thích nghi với những biến đổi của mơi trường.
7. Sự biến động số lượng quần thể. Bản chất của hiện tượng. Các giả thuyết giải
thích nnguyên nhân của biến động số lượng quần thể.
19
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
CHƯƠNG 3: QUẦN XÃ SINH VẬT
1.4 KHÁI NIỆM QUẦN XÃ SINH VẬT
3.1.1. Định nghĩa: Quần xã (Community), hay xã hội sinh vật là một tập hợp các
quần thể sinh vật cùng sống chung với nhau trong một sinh cảnh xác định, được
hình thành trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài, liên hệ mật thiết với nhau
bằng những đặc trưng chung về sinh thái học mà các thành phần cấu thành
quần xã (quần thể, cá thể) khơng có được.
3.1.2. Đặc trưng cơ bản QX:
1. Tính đa dạng về tổ thành loài:
- Các chỉ số đa dạng về loài d (margalef-1958; Menhinik-1964; Odum, Cantlon
và Kornieker-1960):
S1
S
S
d2
d3
cá thể
log N
1000
N
Trong đó: S: số loài. N: số cá thể; logarit cơ số e
d1
- Chỉ số cân bằng e (Pielou, 1966):
e
H
log 2 S
Trong đó: ` H : chỉ số Shannon; S: số loài
- Chỉ số về tổng sự đa dạng H (Shannon và Weaver - 1949, Margalef - 1968):
n
n
H i log 2 i Pi log 2 Pi
N
N
Trong đó: ni: giá trị "vai trò" của mỗi lồi
N: Tổng giá trị vai trò
Pi: xác suất "vai trò" của mỗi loài = ni/N
2. Cấu trúc: thể hiện qua các đặc điểm như:
- Đặc điểm phân bố không gian của quần xã phụ thuộc vào bản chất phân hóa
của các yếu tố môi trường theo chiều thẳng đứng và theo phương nằm ngang,
rất khác biệt nhau trong các điều kiện cụ thể,
- Đặc điểm về hoạt động
- Đặc điểm về quan hệ dinh dưỡng, v.v....
20
Bài giảng sinh thái môi trường 4-2013
3. Nhịp điệu sinh học: Mỗi quần xã thể hiện nhịp điệu sinh học riêng, có thể là
nhịp điệu ngày đêm, mùa, hay nhịp điệu nhiều năm phụ thuộc vào chu kỳ biến
đổi của các yếu tố môi trường nơi quần xã tồn tại, phụ thuộc vào bản chất của
quần xã và các thành phần cấu thành nên quần xã. Nhịp điệu của quần xã là
tổng tất cả nhịp điệu của các quần thể như: hoạt động di cư, sinh sản, ngủ
đông, rụng lá.
3.2. THÀNH PHẦN CỦA QUẦN XÃ
3.2.1. Khái niệm về ưu thế sinh thái
Quần xã là một chỉnh thể thống nhất của các quần thể thuộc nhiều lồi khác
nhau. Tuy nhiên trong quần xã, khơng phải các lồi đều có vai trò như nhau đối với
q trình phát triển của quần xã, mà chỉ có một lồi hay một nhóm lồi có vai trò
quyết định đến các đặc điểm (bản chất) và chức năng của quần xã (số lượng, kích
thước, năng suất).
Những lồi này có số lượng nhiều, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
cường độ trao đổi vật chất và năng lượng trong nội bộ quần xã với nhau cũng như
với môi trường vật lý xung quanh, từ đó mà có ảnh hưởng đến các lồi khác. Chúng
có ảnh hưởng đến mơi trường, đến cấu trúc, đến độ nhiều, tính đa dạng và các tính
chất khác trong quần xã. Đó là các lồi có ưu thế sinh thái trong quần xã.
Những lồi có ưu thế sinh thái khơng nhất thiết là những lồi có thang bậc
phân loại cao, nó khơng phụ thuộc vào thang bậc phân loại. Tuy nhiên trong tự
nhiên, những loài chiếm ưu thế sinh thái thường khơng phải là những lồi vi sinh
vật. Nhìn chung lồi có ưu thế sinh thái là lồi có năng suất cao nhất ở bậc dinh
dưỡng của mình. Ví dụ:
- Các lồi cây thân gỗ sống lâu năm trong hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới.
- Động vật ăn cỏ trong hệ sinh thái đồng cỏ savan.
- Lúa nước trên ruộng lúa.
Độ nhiều hay sự phong phú của loài ưu thế trong quần xã được xác định qua chỉ số
ưu thế
C (
ni 2
)
N
Trong đó:
ni - giá trị về “ vai trò” của mỗi lồi (số cá thể, sinh khối, sản lượng)
N - Tổng giá trị về vai trò của tồn bộ quần xã.
C - Chỉ số ưu thế (Simpson, 1949)
3.2.2. Cách đặt tên cho một quần xã
Muốn đặt tên cho một quần xã, người ta thường dựa vào các đặc điểm sau:
- Dựa vào các loài chiếm ưu thế, các dạng sống hay các loài chỉ thị. Cách
đặt tên này chỉ thuận tiện cho các quần xã có một hoặc vài lồi ưu thế (rừng lim,
ruộng lúa)
21