Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.25 KB, 73 trang )
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng cũng dựa trên một số căn cứ
chính sau để xây dựng nên hệ thống chương trình:
Mục tiêu đào tạo: đối với từng cấp học, nhà nước có những qui định khác
nhau về mục tiêu đào tạo. Theo đó, chương trình tiếng Việt ở bậc THCS và THPT
có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức nền, có tính chất cơ bản, có
tính ứng dụng cao để học sinh có thể vận dụng tiếng Việt một cách thành thạo và
đúng trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong học tập những bậc cao hơn.
Chính vì vậy, các bài tiếng Việt trong sách giáo khoa đã được chọn lựa rất kĩ để
đảm bảo yêu cầu này.
Đặc trưng của môn tiếng Việt1 là một môn học gồm hai bộ phận là tri thức
về ngôn ngữ học như một ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ và tiếng Việt
với tư cách là một công cụ giao tiếp xã hội. Với hai bộ phận trên, cấu trúc chương
trình môn học vừa phải cung cấp những khái niệm ngôn ngữ vừa phải tìm hiểu cơ
cấu hệ thống tiếng Việt gồm các bộ phận hợp thành như ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp… và những quy tắc sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên giờ tiếng Việt không phải
là một giờ ngôn ngữ học nên những kiến thức chỉ có tính cơ bản và gắn liền với
phần luyện tập.
Một căn cứ quan trọng khác là tâm lí lứa tuổi của đối tượng. Ở chương
trình THCS, độ tuổi của học sinh từ 12 đến 15 tuổi, tư duy và nhận thức còn chưa
phát triển đầy đủ, chính vì vậy, các bài tiếng Việt thường rất ngắn, mỗi đơn vị kiến
thức được tinh lọc đến mức tối đa sao cho dễ hiểu, dễ tiếp thu và có tính ứng dụng
thực tiễn cao nhất. Hệ thống phân loại câu tiếng Việt cũng được giảng dạy trong
cấp học này và người biên soạn sách giáo khoa đã chọn lựa cách phân loại dễ
hiểu, đơn giản nhưng vẫn đảm bảo những kiến thức cơ bản nhất. Ở chương trình
sách giáo khoa THPT, các em học sinh đã có những phát triển về mặt tư duy nên
chương trình được phát triển lên một mức cao hơn, đòi hỏi tư duy logic và khả
năng trừu tượng. Chương trình tiếng Việt vì vậy cũng được xây dựng với những
kiến thức tương đối phức tạp hơn.
B. Vấn đề phân loại câu theo chương trình cải cách
[Sách ngữ văn 6, 7, 8. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên)]
1
Dẫn theo Lê A- Nguyễn Quang Ninh- Bùi Minh Toán (2010), Phương pháp dạy học tiếng Việt, Hà Nội:
Giáo dục
Trang 65
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
I. Phân loại theo cấu tạo ngữ pháp.
Những sửa đổi về nội dung kiến thức câu so với sách giáo khoa trước khi chỉnh lý.
Sách giáo khoa hiện hành phân chia thành câu trần thuật đơn, câu ghép và câu đặc
biệt:
“Câu trần thuật đơn là câu do cụm C- V tạo thành, dùng để giới thiệu, tả
hoặc kể về một sự việc, một sự vật hay dùng để nêu ý kiến”. Câu trần thuật đơn
phân chia thành câu trần thuật đơn có từ “là” và câu trần thuật đơn không có từ
“là”.
Ví dụ: Mọi người đều yêu mến thằng bé.
“Câu ghép là những câu do hai hoặc nhiều cụm C- V không bao chứa tạo
thành. Mỗi cụm C- V này gọi là một vế câu. Các vế câu ghép có quan hệ ý nghĩa
với nhau khá chặt chẽ. Những quan hệ thường gặp là: quan hệ nguyên nhân, quan
hệ điều kiện/ giả thiết - kết quả, quan hệ tương phản; quan hệ tăng tiến, quan hệ
lựa chọn, quan hệ bổ sung, quan hệ tiếp nối, quan hệ đồng thời, quan hệ giải thích.
Mối quan hệ thường được đánh dấu bằng những quan hệ từ hoặc cặp từ hô ứng
nhất định. Tuy nhiên, cũng có câu ghép không dùng từ nối, giữa các vế câu có dấu
phẩy hoặc dầu hai chấm.
Ví dụ: Nếu chiều nay không có mưa thì em sẽ đi thăm nó.
“Câu đặc biệt là loại câu không cấu tạo thành mô hình chủ ngữ - vị ngữ”.
Câu đặc biệt thường được dùng để: xác định thời gian, nơi chốn diễn ra sự việc
được nói đến trong đoạn văn; liệt kê thông báo về sự tồn tại của sự vật, hiện
tượng; bộc lộ cảm xúc; gọi đáp.
Ví dụ: Đoàn người nhốn nháo lên. Tiếng reo. Tiếng vỗ tay. (Nam Cao).
II. Phân loại theo mục đích phát ngôn
a. Câu nghi vấn
Câu nghi vấn là câu có những từ nghi vấn (ai, gì ,nào, sao, tại sao, đâu, bao
giờ, bao nhiêu, à, ư, hả, chứ, có …không, đã…chưa) hoặc có từ “hay” nối các vế
có quan hệ lựa chọn.
Câu nghi vấn có chức năng chính dùng để hỏi.
Khi viết, câu nghi vấn kết thúc bằng dấu chấm hỏi.
Trang 66
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
Ví dụ: Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không? (Ngô Tất Tố, Tắt đèn).
Trong nhiều trường hợp, câu nghi vấn không dùng để hỏi mà dùng để cầu
khiến, khẳng định, phủ định , đe doạ, bộc lộ cảm xúc và không yêu cầu người đối
thoại trả lời.
Ví dụ:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)
Nếu dù để hỏi thì trong một số trường hợp, câu nghi vấn có thể kết thúc bằng
dấu chấm , dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng.
Ví dụ: Đến lượt bố tôi ngây người ra như không tin vào mắt mình. Con gái
tôi vẽ đấy ư ? chả lẽ lại đúng là nó, cái con mèo hay lục lọi ấy.
( Bức tranh của em gái tôi - Tạ Duy Anh) - ( Trang
22).
b. Câu cầu khiến.
Câu cầu khiến là câu có những từ cầu khiến như: hãy, đừng, chớ, đi, thôi,
nào,…hay ngữ điệu cầu khiến; dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo.
Khi viết, câu cầu khiến thường kết thúc bằng dấu chấm than, nhưng khi ý cầu
khiến không được nhấn mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm.
Ví dụ: Ông giáo hút trước đi. (Lão Hạc – Nam Cao)
c. Câu cảm thán
Câu cảm thán là câu có những từ ngữ cảm thán như: ôi, than ôi, hỡi ơi, chao
ôi, trời ơi, thay, biết bao,, xiết bao, biết chừng nào…dùng để bộc lộ trực tiếp cảm
xúc của người nói (người viết); xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ nói hằng ngày
hay ngôn ngữ văn chương.
Khi viết, câu cảm thán thường kết thúc bằng dấu chấm than.
Ví dụ: Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ( Thế Lữ, Nhớ rừng).
Trang 67
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
d. Câu trần thuật
Câu trần thuật không có đặc điểm điển hình của các kiểu câu nghi vấn, cầu
khiến, cảm thán; thường dùng để kể, thông báo, nhận định, miêu tả…
Ngoài chức năng chính trên đây, câu trần thuật cò dùng để yêu cầu, đề nghị
hay bộc lộ cảm xúc,…( vốn là chức năng chính của những kiểu câu khác).
Khi viết, câu trần thuật thường kết thúc bằng dấu chấm, nhưng đôi khi nó có
thể kết thúc bằng dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng.
Đây là kiểu câu cơ bản và được dùng phổ biến nhất trong giao tiếp.
Ví dụ: Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu
nước của dân ta.
III. Nhận xét
1. Vấn đề phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp ở chương trình phổ
thông.
• Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp ở chương trình cũ có sự khác nhau giữa
các bậc học.
+ Chương trình ở bậc trung học cơ sở chia câu làm hai loại: câu đơn (câu đơn
hai thành phần, câu đơn đặc biệt và câu tỉnh lược) và câu phức (câu phức thành
phần và câu ghép).
+ Chương trình ở bậc trung học phổ thông chia câu thành 3 loại: câu đơn (câu
đơn hai thành phần và câu đơn đặc biệt), câu phức và câu ghép.
=> Cách phân chia như thế không đồng nhất và gây khó khăn cho học sinh trong
việc học tập. Đồng thời cách chia này quá chi tiết và cũng tạo nên sự phức tạp.
• Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp cũng có sự khác biệt giữa chương trình
cũ và chương trình cải cách.
+ Ở chương trình cải cách, kiến thức được cung cấp mang tính toàn diện,
được bao quát và nâng cao hơn. Bài tập thực hành phong phú, đa dạng, rèn luyện
nhiều kĩ năng có tác dụng phát triển năng lực tư duy của học sinh. Chẳng hạn có
loại bài tập tìm những câu ghép trong các đoạn văn, rồi từ đó cho biết trong mỗi
câu ghép được nối với nhau bằng cách nào? Có loại bài tập nâng cao hơn nữa
như: với mỗi cặp quan hệ từ dưới đây, hãy đặt một câu ghép như: vì…nên; tuy…
nhưng…Chuyển câu ghép mà em vừa đặt thành những câu ghép mới bằng một
trong hai cách sau: bỏ bớt một quan hệ từ hoặc đảo lại trật tự các vế câu (hoặc
Trang 68
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong những câu ghép dưới đây và cho
biết mỗi vế câu biểu thị ý nghĩa gì trong mối quan hệ ấy?)
+ Tuy nhiên, việc phân chia này cũng có hạn chế : chương trình hiện hành ở
bậc phổ thông dường như không thống nhất với chương trình ở bậc tiểu học.
Trong sách giáo khoa tiểu học, câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp thành câu
đơn (câu đơn đặc biệt và câu đơn bình thường) và câu ghép (câu ghép đẳng lập và
câu ghép chính phụ). Còn sự phân loại trong hiện hành là phức tạp, phải phân
tích sâu mới hiểu được vấn đề.
2. Vấn đề phân loại câu theo mục đích phát ngôn ở chương trình phổ
thông
• Nhìn chung việc phân loại câu theo mục đích phát ngôn trong chương trình
cũ và chương trì cải cách không có gì khác biệt lớn. Cả hai chương trình đều
thông nhất có bốn kiểu câu: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm
thán. Sự khác biệt ở đây là việc định nghĩa và thứ tự “ưu tiên” của các kiểu câu.
+ Chương trình cũ theo hướng giải thích khái niệm và xếp các câu theo thứ
tự: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm thán.
+ Chương trình cải cách theo hương căn cứ vào hình thức và xếp các câu
theo thứ tự: câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và câu trần thuật.
=> Cách giải quyết của chương trình cải cách ngắn gọn, dễ hiểu và bao quát
hơn so với cách giải quyết của chương trình cũ.
• Ở chương trình cũ có sự lặp lại kiến thức về phân loại câu theo mục đích
phát ngôn. Điều này là không cần thiết. Và chương trình cải cách đã tránh được
hạn chế này.
Tóm lại, việc phân loại câu nên cần có sự thống nhất trong chương trình ở
ba cấp học để thuận lợi cho việc dạy và học tiếng Việt. Đồng thời, ta phải chú ý
vào lứa tuổi để đưa kiến thức vào chương trình hợp lí. Cùng một nội dung nhưng
mức độ chuyên sâu sẽ tăng dần theo cấp học và tránh trường hợp lặp lại là một
giải pháp mà theo chúng tôi, ta cần phải chú ý khi soạn chương trình học.
KẾT LUẬN
Trang 69
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
Cho đến ngày hôm nay, vấn đề nghiên cứu phân loại câu tiếng
Việt vẫn còn là đề tài tranh luận của các nhà ngữ pháp. Xét về mặt dung lượng,
câu tiếng Việt vô cùng phong phú và đa dạng không những về cấu tạo mà cả mục
đích nói và các phương diện khác. Chính vì vậy, dù đã có rất nhiều hệ thống phân
loại khác nhau được đưa ra nhưng chưa có một hệ thống nào có thể bao quát hết
tất cả các loại câu trong tiếng Việt.
Với dung lượng của một bài tiểu luận, chúng tôi đã tiến hành khảo
sát, thống kê cách phân loại câu tiếng Việt của một số sách ngữ pháp tiêu biểu,
cách phân loại trong sách giáo khoa và rút ra được một số nhận xét như sau:
Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp là một vấn đề khá phức tạp, còn
nhiều tranh cãi giữa ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp hiện hành bởi tiêu chí
phân loại của mỗi quan điểm thì khác nhau.
Phân loại câu theo mục đích nói thì có sự thống nhất khá cao giữa các nhà
nghiên cứu khi phân câu thành bốn loại là câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu
khiến và câu cảm thán.
Trong sách giáo khoa, các nhà biên soạn đã có những thay đổi, cải tiến khi
kết hợp những ưu điểm của ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp hiện hành làm
thành một hệ thống phân loại khá đơn giản nhưng vẫn đảm bảo nội dung kiến thức
trọng tâm.
Tuy nhiên, dù còn nhiều tranh cãi nhưng ở mỗi quan điểm các nhà
ngữ pháp đều đưa ra được những ưu điểm nhất định và góp phần không nhỏ vào
việc nghiên cứu câu tiếng Việt nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung.
Trang 70
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (2007). Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ
pháp chức năng). Hà Nội: NXB Giáo dục
2. Diệp Quang Ban (1996). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục
3. Cao Xuân Hạo (1991). Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1. NXB
KHXH
4. Trần Thị Kim Phượng (2010). Bàn thêm về cấu trúc đề thuyết của câu tiếng
Việt. Ngôn ngữ và đời sống, số 3 (tr. 1-9)
5. Nguyễn Đức Dương (2002). Câu trong tiếng Việt: cấu trúc cú pháp (phần 2).
Ngôn ngữ và đời sống, số 6 (tr.3-7)
6. Trần Hoàng (2011). Tài liệu học tập ngữ pháp tiếng Việt học phần 2. ĐHSP
TPHCM.
7. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). (2004). Lược sử Việt ngữ học. NXB Giáo dục
8. SGK Tiếng Việt 6, 7, 10 (chương trình cũ). NXB Giáo dục
9. SGK Ngữ văn 7, 8 (chương trình cải cách). NXB Giáo dục
10. Lê A- Nguyễn Quang Ninh- Bùi Minh Toán (2010), Phương pháp dạy học
tiếng Việt, Hà Nội: Giáo dục
11. Hoàng Trọng Phiến (2009), Ngữ pháp tiếng Việt (Câu), Nxb. ĐHQGHN.
12. Nguyễn Quý Thành (2009). Câu tiếng Việt và việc luyện câu cho học sinh tiểu
học, Nxb. GDVN.
13. Nguyễn Văn Hiệp (2009). Cú pháp tiếng Việt, Nxb. GDVN.
14. Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung - Lê Cận – Phan Thiều. 1983. Giáo trình
ngữ pháp tiếng Việt (tập 2). Nxb Giáo dục
15. Hoàng Văn Thung - PGS. PTS. Lê A. 1995. Ngữ pháp tiếng Việt. Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 1. Nxb Hà Nội
16. Nguyễn Kim Thản. 1997. Nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb GD
17. Theo Nguyễn Hữu Quỳnh, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa Hà
Nội, 2001
18. Nguyễn Thị Lương.(2006). Câu tiếng Việt. Nxb Đại học Sư phạm
Trang 71
Phân loại câu tiếng Việt
Nhóm 1 – Văn 3A
19. Hoàng Trọng Phiến. 2008. Ngữ Pháp tiếng Việt. Câu. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội
20.Trần Hoàng. 2003. Một số suy nghĩ xung quanh việc dạy học “Phân loại câu
tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp”. Tạp chí ngôn ngữ (số 5). Tr 69 - 77
21.www.ngonngu.net
Trang 72