1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn học - Ngôn ngữ học >

III. Khả năng tách vế của câu ghép ra thành câu riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.25 KB, 73 trang )


Phân loại câu tiếng Việt



Nhóm 1 – Văn 3A



Việc tách vế của câu ghép đẳng lập và câu ghép chuỗi ra thành một câu riêng,

gần như không có gì trở ngại gì. Vấn đề chỉ là sử dụng thế nào cho đúng hoặc

có giá trị tu từ học các kết từ ở vế cuối của câu ghép đẳng lập khi tách nó ra

khỏi vế đứng trước nó.

Ví dụ:

Bà chỉ may cho con những quần áo thường, đủ mặc thôi. Còn đứa nào muốn

hoa hòe hoa sói, cứ bỏ tiền túi ra mà hoa hòe hoa sói. (Nam Cao)

Đến khi hiểu ra thị cười rũ rượi. Câm cũng cười. (Nam Cao)

Thực ta, khó nói chắc là ở đây có câu ghép được tách ra thành nhiều câu riêng

hay đó vốn là những câu riêng được liên kết với nhau bằng các kết từ bình

đẳng và các phụ từ, tức là ta có hiện tượng thuộc đối tượng xem xét thứ hai.

2. Tách vế của câu ghép chính phụ

Việc tách vế của câu ghép chính phụ ra thành hai câu riêng tuân thủ những quy tắc

khá chặt chẽ.

Chúng ta có 4 kiểu nhỏ câu ghép chính phụ, và gọi tên theo mối quan hệ, được coi

là chính, của trật tự các vế trong chúng thì sẽ là:

-



Câu ghép nguyên nhân – hệ quả.

Câu ghép điều kiện / giả thiết – hệ quả.

Câu ghép nhượng bộ - tăng tiến.

Câu ghép mục đích sự kiện.



Trong trật tự này, khi có mặt kết từ ở vế đầu (tức là kết từ 1), thì không được tách

2 vế này ra thành 2 câu riêng. Cụ thể là không được phép tách các ví dụ:

“Vì tên này Dậu là thân nhân của hắn, cho nên, chúng con bắt nộp thay”. (Ngô Tất

Tố)

“ Nếu cụ chỉ cho một đồng, thì còn hơn một đồng nữa chúng con biết chạy vào

đâu được. (Ngô Tất Tố)

Tuy tôi đã nói nhiều nhưng nó vẫn không nghe.

Để họ có thể đến kịp giờ (thì) chúng ta phải đem xe đón họ.

Điều kiện để tách 4 kiểu nhỏ câu ghép này là

a.Trật tự các vế phải là 2 -1



Trang 29



Phân loại câu tiếng Việt



Nhóm 1 – Văn 3A



b. Như đã biết, với trật tự các vế là 2- 1 thì kết từ của vế chính (tức k2) phải bị

xóa.

c.Vậy, về mặt ý nghĩa, sau khi biến đổi vế câu, chúng sẽ là những câu ghép kiểu:

- Sự kiện - nguyên nhân

- Sự kiện – điều kiện / giả thiết

- Sự kiện – nhượng bộ

- Sự kiện – mục đích

Sau đó có thể thực hiện việc tách câu. Cụ thể chúng ta sẽ có những đôi câu mới

như sau:

Chúng con bắt tên Dậu nộp thay.Vì tên này là thân nhân của hắn”. (Ngô Tất Tố).

(Đối chiếu với câu phần trên).

Còn hơn một đồng nữa, chúng con biết chạy vào đâu được? Nếu cụ chỉ cho một

đồng”. (Ngô Tất Tố) (Đối chiếu với câu phần trên).

Nó vẫn không nghe. Tuy tôi đã nói nhiều. (Đối chiếu với câu phần trên).

Hắn không còn kinh rượu, nhưng cố uống cho thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng

nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau (Nam Cao). (Đối chiếu với câu phần trên).

Trong việc tách 4 kiểu nhỏ câu ghép này cần chú ý:

- Kiểu câu chỉ hệ quả - nguyên nhân với cặp kết từ sở dĩ...là vì không thể thay đổi

trật tự hai vế và không thể tách 2 vế thành 2 câu riêng. Muốn tách phải bỏ kết từ

sở dĩ ở vế đầu chỉ hệ quả, và như vậy thì ta lại có câu kiểu sự kiện – nguyên nhân.

- Kiểu câu có cặp kết từ nếu ...thì với ý nghĩa đối chiếu thường không thay đổi trật

tự hai vế và thường cũng không tách hai vế ra thành hai câu riêng được

Theo khuôn hình chung của câu ghép chính phụ nêu ở điểm 1, thì kết quả của việc

tách vế sẽ là:

[C | V]2. K1 [ C | V] 1

Ngoài khả năng tách vế của 2 câu ghép chính phụ vừa xem xét, chúng ta cũng gặp

trường hợp dùng riêng câu có kết từ tương tự như một vế trong câu ghép. Những

câu như vậy chỉ có thể coi là tương đương với vế của câu ghép và thường xuất

hiện sau nhiều câu, hoặc sau một câu có nhiều sự kiện khiến ta không thể ( hoặc

không nên) thêm vào trước chúng những kết từ đối ứng để biến cả cụm câu thành

một câu ghép. Các câu tương tự về câu ghép chính phụ thường gặp là:

Trang 30



Phân loại câu tiếng Việt



Nhóm 1 – Văn 3A



Câu có kết từ (cho) nên ,thành thử chỉ hệ quả

Câu có kết từ (bởi) vì, (là) vì chỉ nguyên nhân

Câu có kết từ nếu chỉ điều kiện

Câu có kết từ mặc dầu, tuy chỉ ý nhượng bộ.

Ví dụ:

Hắn bứt rứt quá, ngứa ngáy quá, và chợt nghĩ đến cái bờ sông gần nhà. Bởi vì cái

vườn của hắn ở gần một con sông con nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn

dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuôn theo nhau thành làn. (Nam Cao)

3.Tách vế của câu ghép qua lại

Câu ghép qua lại là câu ghép dùng những cặp phụ từ có tác dụng liên kết để nối 2

vế lại với nhau. Trật tự các vế trong kiểu câu ghép này nhìn chung không thay đổi

được, điều đó chứng tỏ mức độ gắn bó giữa 2 vế rất cao. Trong thực tiễn sử dụng,

những vế trong câu ghép qua lại thường không được tách thành câu riêng. Tuy

nhiên, thỉnh thoảng cũng gặp những câu thuộc kiểu này được tách mỗi vế thành

một câu riêng, thứ nhất là khi mỗi vế là mỗi cấu tạo khá lớn.

Ví dụ:

(Không ngờ Mô lại để ý nhiều). Có nhiên không phải chỉ vì muốn tận tâm với 2

hai cậu mà thôi. Còn vì lợi riêng của nó (Nam Cao)

Cẩn không chỉ là một tên thất học, tàn bạo, than lam. Hắn còn là một kẻ hiểm độc

và nhiều tham vọng. (Hữu Mai)

Tôi vừa được nhìn thấy nhà thờ Phú Cam xưa nhất xứ Huế, tôi lại vừa được chiêm

bái cụ cố ông, một đấng trung thần. (Hữu Mai)

Khi các phụ từ không gặp nhau để tạo thành thế hô ứng (như trong 2 vế của câu

ghép), thì sự tồn tại của từng câu chứa phụ từ riêng rẻ là viêc bình thường.

Ví dụ: Nhãn này vừa mới có cùi.

Trẻ con đã vạch sạch mấy quả nhãn rồi.

Chú thích chung cho điều III

a. Khi vế câu ghép được tách thành câu riêng, thì tất cả những phương tiện biểu thị

mối liên hệ giữa các câu riêng mới đều trở thành phương tiện liên kết câu ( trật tự

trước sau, kết từ, phụ từ).



Trang 31



Phân loại câu tiếng Việt



Nhóm 1 – Văn 3A



b. Việc tách một vế hay tất cả các vế trong câu ghép ra thành câu riêng không phải

là một việc làm tùy tiện, tuy chúng ta chưa nêu ra được những điều kiện khống

chế chặt chẽ. Nó xác nhận tính khả phân của văn bản (tính chất chia nhỏ được của

văn bản). Và chịu sự chi phối chung nhất của tình huống sử dụng ngôn ngữ và

hoàn cảnh ngôn ngữ chung quanh câu đang xét. Và, cũng như sự tách đoạn, ít

nhiều nó có nói lên đặc trưng phong cách( phong cách chức năng – thể văn – và

phong cách cá nhân).

c . Khả năng tách các vế trong câu ghép ra thành câu riêng, nói chung như đã thấy,

là một trong những lí do kiến một số người nghiên cứu ngữ pháp văn bản có ý

định xem xét câu ghép chung với xem xét chỉnh thể trên câu (hiểu là một cụm câu

có chung một chủ đề nhỏ nhất), tức là chuyển câu ghép vào khu vực ngữ pháp trên

câu.



IV. Câu ghép nhiều bậc

Ở trên chúng ta chỉ bàn đến câu ghép ở một bậc, tạm thời chưa nói đến những câu

trong đó mỗi vế tự nó lại là một cấu tạo có dạng câu ghép. Loại thứ hai thường

được gọi là câu ghép nhiều bậc, thông thường có 2 bậc.

Như ta biết, nói đến câu ghép trước hết là nói về cách cấu tạo phức hợp về cú pháp

của nó chứ chưa phải là nói về số lượng từ hay sự rắc rối trong nội dung của nó.

Chẳng hạn một câu chỉ có hai từ vẫn có thể là câu ghép.

Ví dụ:

(1) Khéo ngã!

Người thạo tiếng Việt đều biết câu (1) không cùng kiểu với tổ hợp từ khéo nói

trong:

(2) Khéo nói thì ông ấy sẽ bằng lòng.

Từ khéo ở câu (1) cũng không hàm ý mỉa mai (tình thái) như trong:

(3) Khéo vô duyên bấy là mình với ta. (Nguyễn Du)

Dạng thường gặp khác của (1) là

(4) Khéo không thì ngã!

(5) Không khéo thì ngã!

Và cũng gặp cách nói đầy đủ hơn.

(6) Nếu không khéo (hay: cẩn thận) thì ngã đấy!

Câu (1) là dạng rút gọn vẫn còn đầy đủ hai vế của câu (6)

Trang 32



Phân loại câu tiếng Việt



Nhóm 1 – Văn 3A



Câu sau đây vần không phải là câu ghép (mà là câu phức thành phần).

(7) Tôi dạo này con cái đứa nào cũng đi làm.

Trong câu này giữa tôi và con cái có quan hệ chỉnh thể - bộ phận, giữa con cái và

đứa nào có quan hệ tập hợp – thành viên của tập hợp. Và tôi là chủ ngữ và phần

còn lại là vị ngữ. Phần này là một dạng câu đơn, trong đó dạo này là trạng ngữ

thời gian, con cái là đề ngữ, đứa nào là chủ ngữ, cũng đi làm là vị ngữ.

Nếu xét sâu về mặt cấu tạo nghĩa thì câu sau đây là “câu ghép”, nhưng ai cũng xếp

nó vào loại câu đơn (về mặt ngữ pháp):

(8) Sách này đọc hay lắm.

(9) Đối chiếu với :

(8’) Sách này đọc kĩ thì hay lắm.

(8’) Sách này nếu đọc kĩ thì hay lắm.

(8’) Sách này hay lắm, nếu anh đọc kĩ.

Vì lẽ đó, chúng tôi chỉ bàn về câu ghép nhiều bậc xét về mặt cấu tạo ngữ pháp là

chủ yếu, mặt ý nghĩa chỉ dùng để giải thích mà thôi.

Câu ghép nhiều bậc có thể chỉ gồm những bậc có quan hệ chính phụ.

Ví dụ:

9 (a) Tuy tôi đã nói nhiều lần (b) nhưng nó không nghe tôi (c) thành ra hỏng việc.

Bậc 1: (a) là vế chỉ nhượng bộ (b,c) là vế chỉ ý tăng tiến.

Bậc 2: (b) là vế chỉ nguyên nhân, (c) là vế chỉ hệ quả.

Câu ghép nhiều bậc cũng có thể chỉ gồm những bậc có quan hệ bình đẳng.

Ví dụ:

(10) (a) Cách mạng là ở đó, (b) vĩ đại là ở đó, (c) khúc ca hùng tráng là ở đó (d) và

gió dục cũng chính là ở đó. (Phạm Văn Đồng)

Bậc 1: (a,b,c) là một vế bình đẳng với (d) thông qua kết từ và

Bậc 2: (a) – (b) – (c) bình đẳng với nhau theo kiểu ghép chuỗi.

Câu ghép nhiều bậc cũng có thể hỗn hợp cả hai kiểu quan hệ chính phụ và bình

đẳng.

Ví dụ:

Trang 33



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

×