1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Chăn nuôi >

5 Phương pháp thu thập và xử lý số liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.47 KB, 63 trang )


Chương 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 Khảo sát tiểu khí hậu chuồng nuôi

Bảng 4.1 Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi heo sau cai sữa

Ẩm độ (%)



Nhiệt độ (0C)



Tháng



Buổi



2



Sáng



27



23



25,76



82



76



79,01



Trưa



35



32



34,12



68



53



58,82



Chiều



34



32



33,19



70



54



64,06



Sáng



26



23



24,19



88



74



86,31



Trưa



35



29



32,07



64



51



61,23



Chiều



34



27



30,39



75



53



71,58



Sáng



27



22



24,64



86



78



85,38



Trưa



34



29



32,48



70



56



66,38



Chiều



33



25



30,95



80



53



72,69



3



4



Cao nhất Thấp nhất Trung bình Cao nhất Thấp nhất Trung bình



Nhiệt độ (0C)



36

34

32

30

28

26

24

22

20



34,12

32,48

32,07



33,19

30,95

30,39



25,76

24,64

24,19

Trưa



Sáng



Tháng 2



Tháng 3



23



Chiều



Tháng 4



Thời điểm



Qua bảng 4.1 và biểu đồ 4.1, chúng tôi nhận thấy nhiệt độ và ẩm độ giữa các

thời điểm khác nhau trong ngày có biên độ lớn. Tuy nhiên nhiệt độ và ẩm độ giữa 3

tháng thì thay đổi khơng nhiều. Nhiệt độ trung bình buổi sáng từ 24,19 – 25,76 0C,

buổi trưa từ 32,07 – 34,12 0C, buổi chiều từ 30,39 – 33,19 0C. Ẩm độ trung bình

buổi sáng từ 79,01 – 86,31 %, buổi trưa từ 58,82 – 66,38 %, buổi chiều từ 64,06 –

72,69 %. Chính sự biến động nhiệt độ và ẩm độ rất lớn trong ngày đã gây stress cho

heo, làm rối loạn các chức năng sinh lý bình thường của heo.

Ở tháng 2, nhiệt độ trung bình buổi sáng là 25,76 0C trong khi buổi trưa nhiệt

độ trung bình lên đến 34,12 0C, buổi chiều nhiệt độ có giảm nhưng khơng đáng kể

(33,19 0C). Ẩm độ trung bình buổi sáng là 79,01 %, buổi trưa là 58,82 % và buổi

chiều ẩm độ trung bình là 64,06 %. Nhiệt độ cao nhất 35 0C và thấp nhất là 23 0C.

Ẩm độ cao nhất là 82 % và thấp nhất là 53 %.

Ở tháng 3, nhiệt độ trung bình buổi sáng là 24,19 0C, buổi trưa là 32,07 0C,

buổi chiều là 30,39 0C. Ẩm độ trung bình buổi sáng là 86,32 %, buổi trưa là 61,23

%, buổi chiều là 71,58 %. Trong tháng 3, một số ngày có sương mù làm cho ẩm độ

buổi sáng cao, có ngày lên đến 88 %. Buổi trưa, trời khơng mây, nắng gắt, ít gió

làm cho nhiệt độ tăng cao, có ngày đến 35 0C.

Đầu tháng 4 bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu mùa. Mưa nhỏ rải rác vào

buổi trưa và chiều, nhiệt độ vẫn giữ ở mức cao, ẩm độ vẫn còn thấp (nhiệt độ cao

nhất là 34 0C, ẩm độ thấp nhất là 53 %). Thời tiết chuyển biến phức tạp, nắng mưa

thất thường làm giảm sức đề kháng của heo, giảm sức chống chọi với bệnh. Nửa

cuối tháng 4 xuất hiện nhiều cơn mưa to vào sáng sớm và chiều tối. Mưa làm nhiệt

độ giảm thấp (22 0C ở buổi sáng và 25 0C vào buổi chiều), ẩm độ tăng cao (86 % ở

buổi sáng và 80 % ở buổi chiều).

Theo quy định của trại, công nhân được nghỉ lúc 16 giờ. Khi về, tất cả quạt

phải được tắt. Bạt ngăn cách giữa các đợt heo và bạt phía ngồi dãy chuồng được

kéo lên. Những điều này đã làm hạn chế sự lưu thơng của khơng khí trong chuồng.

Nhiệt độ trong chuồng vẫn còn khá cao lúc 16 giờ trong những ngày nắng gắt.



24



Theo Nguyễn Hoa Lý và Hồ Thị Kim Hoa (2004), nhiệt độ tới hạn của heo là

28 0C và trong giới hạn có thể là 24 – 29 0C. Còn theo Nguyễn Ngọc Tuân và Trần

Thị Dân (1997), khi ẩm độ tương đối 60 – 70 % thì nhiệt độ tối ưu cho heo từ 10 –

15 kg là 22 – 26 0C. So với mức yêu cầu cho sự phát triển bình thường của heo con

thì nhiệt độ chúng tôi ghi nhận tương đối cao hơn. Nhiệt độ cao làm cho thyroxin

tiết ra ít, thú biếng ăn, mất nước, máu cô đặc, sự vận chuyển máu dưới da kém, mất

muối, thú thở nhanh… Trường hợp nhiệt độ thấp sẽ làm co mạch máu ngoại vi nên

làm giảm sự truyền nhiệt từ bên trong ra ngoài cơ thể thú, thú run cơ, dựng lông, sự

hấp thu đạm và tổng hợp globulin giảm. Từ đó heo bị giảm sức đề kháng, dễ mắc

bệnh đường hô hấp, xù lông, kém ăn, chậm lớn.

Ẩm độ thích hợp cho vật ni là 70 – 75 %. Khi nhiệt độ thấp và ẩm độ cao

sẽ làm gia tăng mất nhiệt do đối lưu. Khi nhiệt độ cao và ẩm độ cao, nhiệt khơng

thốt được do thơng khí kém, heo khó thải nhiệt làm thân nhiệt tăng cao dẫn đến

giảm sức đề kháng với bệnh. Khi ẩm độ khơng khí thấp làm khơ da và niêm mạc,

tăng lượng bụi trong khơng khí, tăng khả năng nhiễm bệnh đường hơ hấp.

4.2 Tình hình bệnh trên heo sau cai sữa

4.2.1 Tỷ lệ bệnh theo tuần tuổi

Bảng 4.2 Tần số xuất hiện bệnh theo tuần tuổi

Tuần

tuổi



Số

heo

khảo

sát



Số ca mắc

bệnh

Số Tần

ca

số

(n) ( %)



Tiêu chảy

Số

ca

(n)



Tần

số

( %)



Hô hấp

Số

ca

(n)



Tần

số

( %)



Viêm

khớp

Số Tần

ca

số

(n) ( %)



Viêm da

Số

ca

(n)



Tần

số

( %)



5



1514 382 25,23 367 96,07



7



1,83



8



2,09



0



0,00



6



1481 260 17,56 203 78,08



50



19,23



5



1,92



2



0,77



7



1472 175 11,89 111 63,43



49



28,00



1



0,57



14



8,00



8



1451 102



23



22,55



0



0,00



22 21,57



738 80,30 129 14,04 12



1,31



38



Chung

P



919



7,03



57



55,88



0,000



0,000



25



0,291



4,13

0,000



100 %

96,07

90

80

70

60

50

40

30

20

2,09

10

1,83

0

0

5

Tiêu chảy



78,08

63,43



28



19,23



Hô hấp



22,55

21,57



8



1,92

6 0,77



55,88



7



0,57



0

8



Viêm khớp



Tuần tuổi



Viêm da



Biều đồ 4.2 Tần số xuất hiện bệnh theo tuần tuổi

Qua bảng 4.2 và biểu đồ 4.2, chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện bệnh cao

nhất vào lúc 5 tuần tuổi (25,23 %) và thấp nhất vào lúc 8 tuần tuổi (7,03 %). Trong

đó cao nhất là bệnh tiêu chảy (80,30 %) kế đến là bệnh đường hô hấp (14,04 %),

bệnh viêm da (4,13 %) và thấp nhất là bệnh viêm khớp (1,31 %). Sự khác biệt về

tần số cca bệnh xuất hiện rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P < 0,001).

Heo bị tiêu chảy nhiều (96,07 %) ở tuần tuổi thứ 5, chủ yếu là tập trung vào

những ngày đầu sau cai sữa và thấp nhất (55,88 %) vào tuần tuổi thứ 8. Sự khác biệt

về tần số xuất hiện bệnh tiêu chảy theo tuần tuổi rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P <

0,001). Khi chuyển đàn, heo phải đối mặt với hàng loạt yếu tố bất lợi trong quá

trình vận chuyển, xa mẹ, ghép nhiều bầy cùng một ô, thay đổi thức ăn, heo con cắn

nhau làm giảm sức đề kháng. Ở những tuần sau, heo đã quen với mơi trường mới,

bộ máy tiêu hóa cũng đã phát triển hơn, sức đề kháng của heo cũng gia tăng nên số

ca bệnh cũng như tần số xuất hiện bệnh tiêu chảy đã giảm rõ.

Đối với bệnh đường hô hấp, tuần tuổi thứ 7 bệnh cao nhất (28,00 %) và thấp

nhất là tuần tuổi thứ 5 (1,83 %). Sự khác biệt về tần số bệnh đường hô hấp theo tuần

tuổi rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P < 0,001). Ở tuần tuổi thứ 5, heo bị tiêu chảy



26



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

×