Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.08 KB, 69 trang )
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Thực tế kênh tiêu thụ của công ty chưa được phong phú, công ty đã
sử dụng loại kênh phân phối sau:
Sơ đồ 2: Hệ thống kênh phân phối của công ty
Công
ty
11 xí
nghiệp
Cửa
hàng
bán lẻ
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Chi nhánh
tại PHCM
Công ty chỉ sử dụng một loại kênh đó là kênh trực tiếp cụ thể như sau:
+Kênh 1:
Công ty bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng thường là
các đơn vị sản xuất mua làm nguyên liệu, và một số các tổ chức nhà nước
hay các nhà buôn… công ty sử dụng loại kênh này đối với những khách
hàng quen thuộc của công ty thông qua hợp đồng mua bán với số lượng lớn.
Với loại kênh này công ty không nắm bắt rõ được nhu cầu của khách hàng
cũng như nhu cầu về sản phẩm khác của họ và hơn thế nữa công ty không
nắm bắt được chính xác sự biến động của thị trường.
+Kênh 2:
Công ty thông qua các xí nghiệp của mình tiến hành phân phối sản
phẩm. Với loại hình kênh này công ty có mạng lưới phân phối sản phẩm dày
đặc được phân bố khắp các quận huyện của Hà Nội với 11 xí nghiệp và các
Phạm Công Tuyên
41
QTKD Tổng hợp 44A
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kho tàng bến bãi. Công ty sẽ phân phối sản phẩm cho các xí nghiệp theo nhu
cầu cũng như khả năng tiêu thụ của họ. Các xí nghiệp kinh doanh trực tiếp
tiếp xúc với người tiêu dùng cuối cùng, do vây họ hiểu rõ về khách hàng
cũng như sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Khách hàng tại các xí
nghiệp có thể là cá nhân, người tiêu dụng cuối cùng cũng có thể là các tổ
chức hay các nhà bán buôn khác.
+Kênh 3:
Theo nhu cầu của chi nhánh công ty sẽ xuất sản phẩm cho chi nhánh.
Chi nhánh cũng trực tiếp bán hàng và tiếp xúc với khách hàng.
Hiện tại mạng lưới tiêu thụ của công ty chỉ tập trung chủ yếu ở thành
phố Hà Nội và chỉ có một chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, còn các
tỉnh lân cận thì chưa có. Vì thế lượng tiêu thụ sản phẩm của công ty bị hạn
chế, thị phần của công ty không được mở rộng, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm giảm. Do công ty chỉ sử dụng một loại hình kênh nên không tận dụng
được các ưu điểm của các loại hình kênh phân phối khác, mặt khác khả
năng tiêu thụ sản phẩm của công ty phụ thuộc vào các xí nghiệp.
Chính vì thế, để nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm, công ty nên áp
dụng nhiều loại kênh phân phối, thường xuyên kiểm tra, khuyến khích động
viên cho cán bộ công nhân viên thuộc các xí nghiệp của công ty để họ nỗ lực
hơn nữa cho việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Việc vận chuyển và bố trí các kho tàng bến bãi của công ty rất hợp lý
cho việc vận chuyển hàng hóa. Ví dụ: kho Đức Giang, kho Mai Động. Ngoài
ra công ty còn là đại lý tiêu thụ cấp 1 cho nhà máy thép cán nguội Phú Mĩ.
Trong thời gian tới công ty cần áp dụng nhiều loại hình kênh khác nhau để
tăng hiệu quả phân phối sản phẩm đến khách hàng và các đối tác của mình.
Phạm Công Tuyên
42
QTKD Tổng hợp 44A
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2. Quản lý hệ thống kênh tiêu thụ.
Công ty quản lý hệ thống kênh phân phối theo phương pháp quản lý
trực tiếp nghĩa là Văn phòng trụ sở chính của công ty đặt tại Hà Nội chỉ có 2
nhiệm vụ chủ yếu là :
- Thứ nhất: Văn phòng có nhiệm vụ quản lý trực tiếp 11 xí nghiệp
trực thuộc và một chi nhánh công ty tại TPHCM là :
1.
Xí nghiệp kinh doanh thép chế tạo.
2.
Xí nghiệp kinh doanh kim khí và vòng bi.
3.
Xí nghiệp kinh doanh thép xây dựng.
4.
Xí nghiệp kinh doanh thép tấm lá.
5.
Xí nghiệp kinh doanh kim khí và vật tư chuyên dùng.
6.
Xí nghiệp kinh doanh thép hình.
7.
Xí nghiệp kinh doanh phụ tùng và thiết bị.
8.
Xí nghiệp gia công chế biến kim khí Văn Điển.
9.
Xí nghiêp kinh doanh khai thác vật tư.
10.
Xí nghiệp kinh doanh kim khí và dịch vụ số 1.
11.
Xí nghiệp kinh doanh kim khí và dịch vụ số 2.
*Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh đặt tại 23 Nguyễn Thái Bình
– quận Tân Bình – TPHCM.
Theo đó thì hàng tháng, hàng quý và hàng năm các xí nghiệp và chi
nhánh kinh doanh có trách nhiệm báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh cho văn phòng công ty tại Hà Nội. Văn phòng công ty có trách nhiệm
nhận các số liệu và phân tích và tổng hợp các số liệu về hiệu quả tiêu thụ
chung của toàn công ty vào cuối các tháng và cuối các năm. Đồng thời đưa
ra các chiến lược tiêu thụ mới cho các đơn vị trực thuộc và định giá bán cho
các sản phẩm cụ thể từng loại trong kỳ kế hoạch. Sau đó Văn phòng công ty
Phạm Công Tuyên
43
QTKD Tổng hợp 44A
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
tiến hành nhập hàng về kho và phân phối hàng tới các đơn vị trực thuộc theo
định mức cụ thể theo từng loại hàng hoá mà các đơn vị này cần.
- Thứ hai, Văn phòng công ty có thể trực tiếp xuất hàng bán cho
khách hàng mua trực tiếp tại công ty mà không cần qua các khâu trung gian.
Doanh số bán này công ty có thể trực tiếp quản lý và định giá bán cho sản
phẩm phù hợp với mức biến động giá của thị trường và giá thoả thuận hợp lý
với khách hàng.
Văn phòng không trực tiếp quản lý các cửa hàng bán lẻ mà hệ thống
các cửa hàng này chịu sự quản lý trực tiếp của các xí nghiệp trực thuộc công
ty. Tất cả các số liệu về xuất nhập hàng bán của các cửa hàng đều do các xí
nghiệp trực thuộc và chi nhánh của công ty quản lý.
Nói tóm lại, phương pháp quản lý hệ thống kênh phân phối của công
ty là quản lý trực tiếp. Văn phòng công ty quản lý các xí nghiệp và chi
nhánh, các xí nghiệp và các chi nhánh quản lý các cửa hàng. Và cửa hàng có
nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng. Giữa Văn phòng
công ty và hệ thống các cửa hàng hầu như không có sự ràng buộc về quản lý
trực tiếp.
2.
Hình thức và kết quả tiêu thụ trong hệ thống kênh.
Để đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng cuối cùng thì công ty Cổ
phần kim khí Hà Nội đã sử dụng 2 hình thức tiêu thụ chủ yếu là bán buôn và
bán lẻ. Theo đó:
-Khối lượng bán buôn của công ty được tính bằng toàn bộ số hàng hoá
mà công ty xuất bán cho các đơn vị khách hàng có nhu cầu lớn về sản phẩm
trên thị trường và được áp dụng giá bán buôn của công ty. Mặc dù vậy
nhưng lượng bán buôn này lại chiếm một tỷ lệ không cao so với tổng số
lượng hàng mà công ty tiêu thụ trong một kỳ. Điều này nghĩa là hàng hoá mà
công ty tiêu thụ được trên thị trường chủ yếu thông qua phương thức bán lẻ.
Phạm Công Tuyên
44
QTKD Tổng hợp 44A
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Để thấy được sự chênh lệch giữa lượng bán buôn và bán lẻ trong một kỳ và
giữa các kỳ ta có thể theo dõi số liệu qua bảng sau:
Tỷ trọng bán buôn và bán lẻ qua các năm
Đơn vị tính: Tấn
Chỉ tiêu
Tổng số
(tấn)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Bán buôn
Lượng bán
( %)
(tấn)
118197
191429
127180
171614
92948
Bán lẻ
Lượng bán
(%)
(tấn)
19029
16,1
99167
83,9
31128
16,26
160301
83,74
32456
25.51
94724
74.49
29758
17.34
141856
82.66
16421
17.66
76527
82.34
Nguồn: Công ty Cổ phần kim khí Hà Nội
Lượng bán buôn có sự giao động không đáng kể trong các năm từ năm
2001 đến 2004. Riêng trong 2 năm 2002 và 2004 công ty có ký được một số
hợp đồng bán buôn có giá trị đáng kể, do đó doanh số bán buôn trong giai
đoạn này có tăng cao hơn so với các năm trước. Mặc dù có đạt được một số
kết quả đáng khích lệ nhưng nếu nhìn một cách tổng thể thì mức tiêu thụ bán
buôn có sự giao động không đáng kể mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ cấu
thị trường và nhu cầu về sản phẩm kim khí ít có sự thay đổi. Mặt khác công
ty chủ yếu vẫn dựa vào phương thức định giá để xác định lượng hàng bán,
chính điều này làm giảm sức cạnh tranh của công ty bởi vì sẽ có rất nhiều
các khách hàng và người tiêu dùng với khối lượng lớn, khi họ mua hàng của
công ty thì lại phải chịu mức giá bán lẻ mà thực tế thì họ chỉ được khấu trừ
chiết khấu trung gian. Hơn nữa chính điều này sẽ hạn chế bớt tính chủ động
trong tìm kiếm khách hàng và việc tổ chức bán hàng của hệ thống các đại lý
bán lẻ của công ty trên phạm vi rộng.
Phạm Công Tuyên
45
QTKD Tổng hợp 44A