Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 172 trang )
Đông, còn ở Trung Quốc, Mông Cổ thì tập trung phía Bắc Trung Quốc và vùng Nội
Mông.
Theo thống kê của FAO (2012) số lượng cừu nuôi nhiều ở 18 quốc gia (Bảng 2.2)
Bảng 2.2: Mười tám quốc gia có đàn cừu nhiều nhất trên thế giới
TT
Quốc gia
Số lượng
(triệu con)
2009
128,56
Số lượng
(triệu con)
2010
134,02
Số lượng
(triệu con)
2011
138,84
Tỷ lệ % tăng
giảm 2011 so
2009
8,0
1
Trung Quốc
2
Ấn Độ
73, 17
73,99
74,50
1,8
3
Úc
72,74
68,08
73,1
0,5
4
I-ran
50,00
49,50
49,00
-2
5
Xu-đăng
51,55
52,08
52,0
0,87
6
Ni-giê-ri-a
34,69
37,42
38,00
9,5
7
Niu Di-lân
32,38
32,56
31,01
-4,2
8
Anh (UK)
31,45
31,08
31,63
0,57
9
Pa-ki-xtan
27,43
27,76
28,09
2,4
10
Ê-ti-ô-pi-a
25,02
25,97
25,51
1,9
11
Thổ Nhĩ Kỳ
23,97
21,79
23,09
- 3,6
12
Nam Phi
24,99
24,50
24,30
-2,7
13
Các nước thuộc
Nga
19,60
19,85
19,76
0,8
14
Tây Ban Nha
19,72
18,55
17,01
-13,7
15
Xy-ri
18,33
15,51
18,07
-4,3
16
Ma-rốc
17,00
18,02
18,50
8,8
17
Bra-xin
16,81
17,38
17,66
5,0
18
Mông-Cổ
19,27
14,48
15,67
-18,7
5
Tổng Thế giới
1.076.680
1.078.326
1.043.712
-3,15
Nguồn: faostat, 2012
Ở châu Âu, mật độ chăn nuôi cừu lớn là ở các nước Nam Âu (Địa Trung Hải),
các nước khối Liên Hiệp Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Ở Châu Úc, chăn nuôi cừu tập
trung ở vùng phía Nam, phía Tây và Newzealand.
Ở châu Phi mật độ chăn nuôi nhiều cừu tập trung ở các nước thuộc Đông Phi,
Tây Phi, Trung Phi và Nam Phi, còn ở Bắc Phi chỉ ở một số nước ven biển Địa Trung
Hải. Ở Nam Mỹ, chăn nuôi cừu tập trung ở các nước thuộc ven biển Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương cũng như các nước Trung Mỹ, vùng biển Caribe .
Cừu là động vật được thuần hóa sớm ở các nước trên thế giới, nhưng ở Việt
Nam cừu là động vật được chăn nuôi muộn hơn các động vật như bò, gà, lợn. Theo
bà con ở Ninh Thuận thì đàn cừu đã có từ trên 100 năm do người Chà Và (Ấn Độ)
mang tới. Có vùng cho rằng cừu được các giáo sĩ người Pháp mang tới cho giáo
dân, trải qua thời gian con cừu đã gắn bó mật thiết với bà con giáo dân, họ không
muốn bỏ con cừu, vì nó tượng trưng cho món quà của Chúa ban tặng. Điều chắc
chắn giống cừu này là cừu thịt xuất xứ từ vùng nhiệt đới, có nhiều khả năng là từ
Ấn Độ nơi có khí hậu nóng tương đồng như Ninh Thuận, nơi “gió như Phan, nắng
như Rang”.
Sự tồn tại của cừu Phan Rang thể hiện sức sống của đàn cừu này và chứng tỏ
tổ tiên chúng rất thích nghi với vùng nắng nóng, sự thích nghi này chứng tỏ cừu
Phan Rang là một nguồn gen quí giá cần được bảo tồn và phát triển.
2.2. Khả năng sinh trưởng của cừu và các yếu tố ảnh hưởng
Tăng trưởng ở động vật được xác định bởi sự gia tăng các tế bào cơ thể, sự
phát triển và biệt hóa của các tế bào cơ thể (Bathaei và Leroy, 1996; Orr, 1982).
Tăng tỷ lệ và kích thước cơ thể cùng với những thay đổi trong thành phần cơ thể có
tầm quan trọng kinh tế rất lớn trong chăn nuôi gia súc lấy thịt. Theo (Bathaei và
6
Leroy, 1996) thì tăng trưởng ở vật nuôi được thể hiện việc tăng khối lượng cơ thể
theo thời gian nuôi.
Trong một nghiên cứu khác (Gatenby, 1986) cho rằng tăng trưởng ở động vật
chủ yếu được đo bằng sự gia tăng khối lượng sống dẫn đến những thay đổi về hình
dáng cơ và thành phần cơ thể. Theo (Orr, 1982) tăng khối lượng sống trong chăn
nuôi là biểu hiện tổng hợp của những thay đổi trong các mô thịt, các cơ quan, nội
tạng. Sự gia tăng khối lượng cơ thể của vật nuôi chủ yếu là sự phát triển của các mô
thịt, xương và chất béo.
Khả năng sinh trưởng của cừu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và một cách tổng
quát nhất có thể chia các yếu tố này thành hai nhóm chính là: Di truyền và ngoại
cảnh, được diễn tả trong công thức sau:
P=G+E
Trong đó:
P là kiểu hình,
G là kiểu gen,
E là ngoại cảnh.
Có thể diễn đạt các thành phần của công thức trên theo cách khác như khả
năng sinh trưởng sẽ tạo nên khối lượng của cơ thể và khối lượng cơ thể là một yếu
tố tạo nên kiểu hình (P), vai trò của yếu tố di truyền trong việc tạo nên kiểu hình
chính là nhờ hoạt động của các gen (G) và yếu tố tương tác với các gen trong việc
tạo nên kiểu hình chính là ngoại cảnh (E).
2.2.1. Yếu tố di truyền và khả năng sinh trưởng của cừu
Theo (Gonzalez, 1972); (Valencia và cs.,1975) cho rằng: Khối lượng sơ sinh là
một tính trạng chịu ảnh hưởng di truyền của phẩm giống, các giống khác nhau thì
có khối lượng sơ sinh khác nhau, khối lượng sơ sinh cao thường thấy ở những
giống cừu cao sản. Theo (Devendra và Faylon, 1989) giống cừu địa phương
Philipine có khối lượng sơ sinh 2,5 và 2,0 kg đối với đực và cái. Còn (Pradhan,
1989) công bố khối lượng sơ sinh của các giống cừu Nepan là Tibetian, Barwal,
Kage, Lampuchhre lần lượt: 2,2; 2,4; 2,6 và 1,6 - 2,0kg.
7
Nhiều nghiên cứu về tăng trọng và khối lượng cai sữa ở cừu của (Langlands,
1973) và (Rattray và cs.,1975) có kết luận là tăng trọng và khối lượng cai sữa của
cừu nhiệt đới thấp hơn cừu ôn đới.
Tốc độ tăng trưởng của những con cừu con, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của
sự phát triển thường chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giống (kiểu gen) (Bathaei và
Leroy, 1996; Burfening và Kress, 1993; Gatenby, 1986; Stobart và cs., 1986;
Movarogenis và cs., 1986; Notter và Copenhaver, 1980; Dzakuma và cs., 1978).
(Devendra, 1975) thấy rằng việc chọn lọc đã cải thiện về tầm vóc, năng suất
của cừu, trong 20 năm qua (1955 -1975) khối lượng trưởng thành của cừu tăng 4-5
kg, chất lượng len cũng đã tăng lên ở cừu Indonesia. Khi cho lai giữa cừu Suffolk ở
Bỉ với cừu Rideau Arcott, khối lượng cừu lai lúc sơ sinh, 21 và 91 ngày tuổi đã tăng
đáng kể so với cừu mẹ (Shrestha và Heaney, 2004).
Những quan sát được về sự khác biệt trong khối lượng và tăng trọng giữa các
kiểu gen khác nhau trong đáp ứng với thức ăn bổ xung có thể là do sự khác biệt về
đáp ứng của các kiểu gen khác nhau đối với thức ăn tinh. Tương tác giữa kiểu gen
và mức dinh dưỡng đã được nghiên cứu do các tác giả khác như: (Hohenboken
và cs.,1976 Alderson và cs.,1982; Brown và cs., 1997).
2.2.2. Tuổi, khối lượng và khả năng sinh trưởng của cừu
Cường độ sinh trưởng phụ thuộc nhiều vào tuổi và khối lượng gia súc, thể chất
và giới tính. Mỗi giống cừu có khối lượng trưởng thành khác nhau. Khối lượng sơ
sinh chịu ảnh hưởng của số con sinh ra trên một lứa đẻ (Gonzalez, 1972; Valencia
và cs., 1975) và bị ảnh hưởng bởi khối lượng mẹ lúc đẻ (Gonzalez, 1972;
Combellas và cs., 1979).
Khối lượng lúc sơ sinh là một trong những yếu tố rất quan trọng, cừu sơ sinh
nặng cân hơn thường sinh trưởng sau cai sữa cao hơn cừu có khối lượng sơ sinh nhẹ
cân, cừu con sơ sinh có khối lượng lớn hơn sẽ có khối lượng cao hơn và có khả
năng tăng trưởng nhanh hơn (Gatenby, 1986). Cải thiện khối lượng sơ sinh có ảnh
hưởng tích cực lên các thông số năng suất khác. Ảnh hưởng đáng kể của khối lượng
sơ sinh đến khối lượng khi cai sữa, khối lượng sáu tháng, tốc độ tăng trưởng và khối
8
lượng lúc giết mổ đã được (Khan và Bhat, 1981) báo cáo trên cừu Muzaffarnagris
và con lai với cừu Corriedales.
(Martinez, 1983) cho rằng có mối tương quan giữa cân nặng khi sinh và sự
phát triển khối lượng cơ thể của cừu ở giai đoạn tiếp theo. Trong một nghiên cứu
khác (Gatenby, 1986) nhận định rằng những con cừu có khối lượng nặng hơn lúc
sinh tăng trưởng nhanh hơn so với những con cừu có khối lượng sơ sinh nhẹ hơn.
Những con cừu có khối lượng nặng hơn khi sinh thường là cừu đẻ đơn hoặc con của
những cừu cái có kích thước cơ thể lớn hơn với điều kiện nuôi dưỡng tốt.
Theo (Laes-Fettback và Peters, 1995) những cừu sinh ra có khối lượng nặng
hơn trong đàn cừu con sinh ra có cơ hội sống tốt hơn để tồn tại, đồng thời sinh
trưởng trước cai sữa cũng chịu ảnh hưởng bởi khối lượng sơ sinh.
2.2.3. Tính biệt và khả năng sinh trưởng của cừu
Giới tính cũng ảnh hưởng đến cường độ sinh trưởng. Theo (Valencia và cs.,
1974b) những nghiên cứu trên cừu Tabasco của Mêhico cho thấy cừu đực lớn nhanh
hơn cừu cái nhiều, khối lượng sơ sinh của cừu đực thường cao hơn 0,2 kg so với
cừu cái. Cũng tác giả trên cho rằng sinh đơn và sinh đôi cũng có sự khác nhau về
khối lượng, lúc 120 ngày tuổi cừu sinh đơn nặng 18,1 kg còn cừu sinh đôi nặng
12,9 kg, đến 12 tháng tuổi cừu sinh đơn nặng 29,2 kg, cừu sinh đôi nặng 23,7 kg.
Theo (Bouix và Kadiri, 1975) cừu đực Katahdin trưởng thành nặng 68-90 kg,
trong khi cừu cái trưởng thành chỉ nặng 55-73 kg, còn cừu Marốc, con cái trưởng
thành nặng 30–40 kg và cừu đực nặng 50–60 kg. Giống cừu Hu-yang của Trung
Quốc là giống cừu cho lông, lúc trưởng thành con đực nặng 35-60 kg, con cái nặng
30-45 kg. Khối lượng 90 ngày tuổi của cừu con/cừu cái và khối lượng 90 ngày tuổi
của cừu con/cừu cái/năm bị ảnh hưởng đáng kể của giới tính của cừu con (p < 0.01)
(Gbangboche và cs., 2006).
Mặc dù cừu thiến thường có tỷ lệ thịt xẻ (%) cao hơn so với cừu khác, thiến
cừu tại bốn tuần tuổi đã dẫn đến giảm tốc độ sinh trưởng ở cừu (Silva và cs., 1980;
Gatenby, 1986).
2.2.4. Dinh dưỡng và khả năng sinh trưởng của cừu
9
Khối lượng sơ sinh bị ảnh hưởng mạnh mẽ của cừu mẹ, điều kiện ăn, mùa
sinh và hệ thống sản xuất (Gatenby và cs., 1997; Rastogi và cs., 1993; Gatenby,
1986; Tuah và Baah, 1985; Dickerson và cs., 1972). Theo Notter và cs. (1991)
khố i lượng sơ sinh của cừu con chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi cừu mẹ và tương
tác giữa cừu mẹ với mùa vụ.
Tốc độ tăng trưởng của những con cừu con, đặc biệt là trong giai đoạn đầu
của sự phát triển, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sản lượng sữa của cừu mẹ hay dinh
dưỡng từ mẹ, sự sẵn có của nguồn thức ăn cả về số lượng và chất lượng (Bathaei
và Leroy, 1996; Burfening và Kress, 1993; Gatenby, 1986; Notter và
Copenhaver, 1980).
Một nghiên cứu trên giống cừu Caribbean của Rastogi và cs. (1993) cho
biế t tăng cân trung bình hàng ngày và khối lượng cai sữa bị ảnh hưởng đáng kể
bởi khả năng làm mẹ của cừu mẹ, số lượng thức ăn mà cừu ăn vào lúc đang chửa
ảnh hưởng đến khối lượng con sơ sinh của cừu con. Petroviće và cs. (2012) thì thấy
rằng khối lượng sơ sinh càng lớn thì cừu con càng có nhiều cơ hội sống hơn.
Tốc độ phát triển của thịt và mỡ ở cừu cho ăn thức ăn tinh lớn hơn ở cừu chăn
thả (P < 0.001), tỷ lệ nạc/mỡ ở cừu chăn thả cao hơn ở cừu cho ăn thức ăn tinh, tuy
nhiên vỗ béo cừu bằng chăn thả (chỉ ăn cỏ) làm giảm tốc độ phát triển của tất cả các
mô so với vỗ béo cừu bằng thức ăn tinh nên cừu vỗ béo bằng cỏ nhẹ cân hơn lúc kết
thúc (Borton và cs., 2005). Thức ăn tinh có ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng,
tăng trọng cao hơn, khối lượng thịt xẻ cao hơn, tuy nhiên cừu đực vỗ béo bằng cỏ
nhiều thịt nạc hơn (Kate Phillips và Karen Wheeler, 2008). Nghiên cứu của
(Kochapakdee và cs., 1994) cho thấy bổ xung thức ăn tinh đã ảnh hưởng đến sinh
trưởng và năng suất của cừu, tuy nhiên chỉ chăn thả không không đủ cho sinh
trưởng ở mức cao nhất, chăn thả cộng với bổ xung một lượng tối thiểu thức ăn
protein sẽ làm tăng năng suất cừu và giảm chi phí sản xuất.
Cừu ăn khẩu phần bổ xung protein cao đã tăng lượng thức ăn ăn vào và khối
lượng so với nhóm ăn khẩu phần bổ xung protein thấp (Kabir và cs., 2004). Như
10
vậy trong điều kiện chăn thả, việc bổ xung protein sẽ làm tăng tăng trọng và tăng
lượng chất khô thức ăn ăn vào.
Tại các vùng có thức ăn dinh dưỡng kém, tiềm năng sinh trưởng của những
giống cừu có khối lượng lớn hơn sẽ không có lợi thế so với các giống nhỏ con, các
giống nhỏ con có thể phát triển bằng hoặc thậm chí tốt hơn so với các giống lớn
(Gatenby, 1986).
2.2.5. Mùa vụ và khả năng sinh trưởng của cừu
Mùa sinh có ảnh hưởng đến khối lượng sơ sinh, tỷ lệ chết, số con/lứa và tăng
trọng của cừu con (Susic và cs., 2005; Yılmaz và cs., 2007). Nghiên cứu gần đây
của (Ugur Sen và cs., 2013) cho thấy cừu cái Karayaka sinh vào mùa đông và mùa
thu sinh trưởng khác nhau lúc cai sữa và sau cai sữa mặc dù chúng có khối lượng sơ
sinh tương tự nhau. Khối lượng lúc cai sữa của cừu sinh vào mùa thu nặng hơn, thịt
xẻ, phổi, lách, cơ đường tiêu hóa cừu sinh mùa thu thấp hơn, nhưng khối lượng gan,
thận, ruột non...cao hơn ( Ugur Sen và cs., 2013).
Cừu sinh vào các mùa khác nhau khuynh hướng có khối lượng sơ sinh khác
nhau (Susic và cs., 2005). Theo (Yılmaz và cs., 2007) cho rằng cừu sinh vào mùa
đông có khối lượng lúc sơ sinh và cai sữa cao hơn so với cừu sinh vào mùa thu và
mùa hè. (Susic và cs., 2005) lại báo cáo rằng cừu sinh vào mùa xuân có khối lượng
lúc sơ sinh và cai sữa cao hơn cừu sinh vào mùa thu hoặc đông.
Khối lượng 90 ngày tuổi của cừu con/cừu cái và khối lượng 90 ngày tuổi của
cừu con/cừu cái/năm bị ảnh hưởng đáng kể của năm đẻ, lứa đẻ (p < 0.01)
(Gbangboche và cs., 2006).
Sự khác biệt về môi trường dẫn đến các thay đổi về thời tiết, đặc biệt là lượng
mưa đã ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng cỏ do đó ảnh hưởng đến
sinh trưởng, số lượng và chất lượng thịt cừu (Unal và cs., 2006). Rất nhiều nhà
nghiên cứu đồng ý rằng có nhiều các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cừu (Kuran và cs., 1999; Cam và cs., 2002; Cam và Kuran, 2004a, 2004b; Ocak
và cs., 2006). Điều kiện nuôi dưỡng có thể đã ảnh hưởng đến sinh trưởng của bào
thai, kết quả là các ảnh hưởng này đã làm thay đổi sinh trưởng của cừu con sau khi
11
sinh (Munoz và cs., 2009). Sự khác biệt của môi trường ở các mùa chửa khác nhau
vì thế có thể đã ảnh hưởng đến sinh trưởng của bào thai lúc chửa ở các mùa vụ khác
nhau.
2.3. Khả năng sinh sản ở cừu và các yếu tố ảnh hưởng
Khả năng sinh sản là một trong những tính trạng quan trọng trong chăn nuôi
cừu, số cừu con/lần đẻ hay số cừu con/năm/cừu cái là một chỉ số tốt và theo
Petrović, (2000) đây là chỉ tiêu rất quan trọng vì nó chính là hiệu quả sinh học của
cừu. Số lượng thịt, sữa và len sản xuất ra/năm do khả năng sinh sản qui định (Notter
và cs., 2000).
Cũng giống như khả năng sinh trưởng, những nhân tố ảnh hưởng đến sinh sản
trước hết là di truyền và ngoại cảnh bao gồm khí hậu, thời tiết, mùa vụ sinh sản,
thức ăn, nuôi dưỡng và chăm sóc, quản lý, trong đó dinh dưỡng, thức ăn và chăm
sóc giữ vai trò quan trọng nhất, còn quản lý là yếu tố không thể thiếu.
12
2.3.1. Di truyền và khả năng sinh sản ở cừu
Tính trạng sinh sản ở cừu có hệ số di truyền thấp, biểu hiện kiểu hình rời rạc
nên khó áp dụng các biện pháp chọn lọc. Hệ số di truyền (h2) cho số con trên lứa
thấp 0,17; 0,11 và 0,06 (Abegaz và cs., 2002) còn hệ số di truyền (h 2) của tuổi dậy
thì cũng rất thấp và giao động 0,1 đến 0,26 (Petrović, 2000). Thành công trong chọn
lọc về sinh sản ở cừu liên quan đến khả năng sinh sản và phụ thuộc rất nhiều vào đa
dạng di truyền của các thành phần sinh sản (Petroviće và cs., 1997, 2001, 2002,
2007).
Tuy vậy, áp dụng chọn lọc theo giá trị giống ước tính (Estimated breeding
value-EBV) về số con sinh ra/mùa ở cừu cũng đã được tác giả (Al-Shorepy và
Notter, 1997) thực hiện và đã cho ra những kết quả bước đầu. Kết quả này cho thấy
tăng số cừu sinh ra/lứa đẻ có thể được cải thiện bằng chọn lọc.
Gần đây, bằng công nghệ sinh học phân tử, một số nhóm nghiên cứu (Mulsant
và cs., 2001; Souza và cs., 2001; Wilson và cs., 1986) đồng thời phát hiện ra rằng sự
di truyền về khả năng sinh sản cao quan sát thấy ở cừu Booroola Merinos là kết quả
của một đột biến ở gen 1B receptor (BMPR- 1B). Một đột biến khác ở gen BMP15
hay gen (DF9B) chịu trách nhiệm cho khả năng sinh sản cao ở cừu Inverdale cũng
đã được Galloway và cs., 2000 phát hiện. Tiếp sau các nghiên cứu trên, gen chính
chịu trách nhiệm về khả năng sinh sản cao ở cừu được phát hiện ở nhiều địa điểm
và trên các giống cừu khác (Davis và cs., 2001).
Bảng 2.3: Hai gen chính qui định khả năng sinh sản cao ở cừu (Davis, 2004)
Gen
Địa điểm
Allele
Nhiễm sắc thể
Giống cừu
BMPR-1B
Booroola
FecBB
6
Merino
BMP15
BMP15
BMP15
BMP15
Inverdale
Hanna
Belclare
Galway
FecXI
FecXH
FecXB
FecXG
X
X
X
X
Romney
Romney
Belclare
Belclare và
X
11
Cambridge
Coopworth
Lacaune
Woodlands
Lacaune
FecX2W
FecLL
13
Các kết quả này đã mở ra một hướng đi mới trong chọn lọc về khả năng sinh
sản ở cừu, đó là chọn lọc với trợ giúp của các marker (Marker assisted selection).
Có thể nói một chương mới trong dự đoán và kiểm soát khả năng sinh sản của cừu
đã bắt đầu.
Dù chọn lọc về khả năng sinh sản là khá khó khăn, ảnh hưởng của di truyền từ
những con đực là khá rõ. Theo Štolc và cs. (2011) cừu đực đã có ảnh hưởng đến số
con cai sữa, khối lượng sơ sinh (P< 0,05 và 0,001). Riêng số con sơ sinh không bị
ảnh hưởng của con đực. Cũng theo Štolc và cs. (2011) sai khác về số con cai sữa do
ảnh hưởng của con đực là 14,2%.
Để khắc phục việc hệ số di truyền về khả năng sinh sản thấp ở cừu, lai giữa
các giống cũng là một giải pháp khả thi. Theo (Devendra, 1975) cho cừu địa
phương Malaysia lai với cừu Dorset Horn đã làm tăng số con lên 1,5 con/lứa và
khối lượng sơ sinh lên đến 2,1-2,3 kg/con. Tuy nhiên, do khả năng chịu nhiệt kém
và thích ứng kém của cừu Dorset nên con lai không phát triển được (Devendra,
1975). Theo (Natasasmita, 1968) đã cho thấy thời gian mang thai là 147,5 và 149,9
ngày ở cừu Priangan, 150,3 ngày ở cừu đuôi béo và 149,0 ngày ở con lai của chúng.
Sự khác biệt về sinh sản tồn tại giữa các giống và kiểu gen ở cừu. Theo
(Petrovic và cs., 2012) cừu Romanov thường có tỷ lệ đẻ rất cao so với cừu
Pramenka (250% so với 110%). Còn theo (Djajanega và Rangkuti, 1989) khoảng
cách lứa đẻ của cừu Java Garut mỏng đuôi, cừu Bogor và cừu đuôi béo tương ứng là
198 và 199 ngày và 250 ngày. Tuổi đẻ đầu tiên của cừu Java Garut mỏng đuôi, cừu
Bogor và cừu đuôi béo tương ứng là khoảng 12 tháng, 11 tháng và 14 tháng
(Djajanega và Rangkuti, 1989). Theo (Turner, 1977) cừu cái Merino Úc, ở Booroola
đã cho 2,1 cừu con sinh ra/năm và ở Peppin đã cho 1,36 cừu con sinh ra/năm. Trong
khi đó cừu cái Landraceewe Phần Lan sinh sản rất tốt ở Anh, đã sinh 2,0; 3,0 và 3,3
cừu con sinh ra/năm lúc một, hai và ba tuổi (Donald và Read, 1976).
2.3.2. Dinh dưỡng và khả năng sinh sản ở cừu
Dinh dưỡng của cừu cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng sinh sản của cừu. Mặc dù còn nhiều tranh cãi làm thế nào để chuẩn bị
14
cừu tốt nhất trước khi phối giống, kỹ thuật Flushing - bổ xung chất dinh dưỡng cho
cừu cái trước khi phối giống đã làm tăng đáng kể tỷ lệ rụng trứng (Branca và cs.,
2000). Theo (Lassoued và cs., 2004) cho thấy có tương tác quan trọng giữa kiểu gen
và mức độ dinh dưỡng. Trong ý nghĩa này, ở cừu rất sung mãn như giống D'Man,
mức độ cao hơn dinh dưỡng trước và trong khi giao phối có liên quan đến cải thiện
hiệu suất sinh sản, nhưng những giống năng suất thấp như Queue Fine de l'Ouest,
khẩu phần ăn không ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ rụng trứng cũng như tỷ lệ đẻ
(Branca và cs., 2000; Lassoued và cs., 2004).
Các ảnh hưởng có lợi về dinh dưỡng đối với khả năng sinh sản ở cừu đã được
biết rõ (Forcada và Abecia, 2006). Trong đó, dinh dưỡng là một trong những yếu tố
chính ảnh hưởng đến tỷ lệ rụng trứng. Thông thường, cừu được chăn thả một nửa
năm, trong mùa đông và khi đẻ chúng được nhốt tại chuồng hoặc chăn thả cộng với
thức ăn bổ xung. Điều quan trọng là cừu phải nhận được dinh dưỡng đầy đủ để
tránh giảm điểm thể trạng hoặc có vấn đề khi sinh, dinh dưỡng kém là nguyên nhân
gây động dục không đều đặn ở cừu cái, giảm rụng trứng, con sinh ra yếu, ngộ độc
khi chửa và giảm tỷ lệ sinh đôi; ở cừu đực dinh dưỡng kém làm giảm số lượng và
chất lượng tinh (Petrovic và cs., 2012).
Theo (Abadjieva và cs., 2011) cho biết khả năng sinh sản được xác định bởi
một hiệu ứng đa nội tiết tố, bao gồm không chỉ quan hệ tình dục và gonadotropin
hocmon mà cả các hocmon giúp trao đổi chất mạnh hơn cũng rất quan trọng. Một
chức năng bị khiếm khuyết trong bất kỳ thành phần phức tạp của hiệu ứng đa nội
tiết tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh sản. Tác giả còn nhận thấy sinh sản có sự
phụ thuộc chặt chẽ vào các nguồn năng lượng và trạng thái trao đổi chất.
Lượng thức ăn dành cho cừu ăn ngay trước khi thụ tinh cũng có tầm quan
trọng đáng kể. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng, nếu ở giai đoạn đó, cho cừu ăn mức ăn
đầy đủ lượng dinh dưỡng cừu có thể rụng nhiều trứng hơn so với bình thường
(Abadjieva và cs., 2011). Kết quả là tỷ lệ phần trăm cừu đẻ cao hơn do tăng số
lượng các cặp sinh đôi. Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến tỷ lệ rụng trứng sẽ rõ hơn
khi các biện pháp dinh dưỡng được tiến hành trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thời
15