Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )
(WHO) công bố cho thấy, mỗi năm Việt Nam có hơn 20.000 người tử vong do điều
kiện nước sạch và vệ sinh nghèo nàn và thấp kém. Còn theo thống kê của Bộ Y tế,
hơn 80% các bệnh truyền nhiễm ở nước ta liên quan đến nguồn nước. Người dân ở
cả nông thôn và thành thị đang phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh do môi trường
nước đang ngày một ô nhiễm trầm trọng.
Hiện nay, hầu hết nước thải sinh hoạt từ các hộ dân, cùng với nước thải tại
các nhà máy, khu công nghiệp, bệnh viện, làng nghề, khu chăn nuôi gia súc, gia
cầm ở đô thị đều xả trực tiếp vào hệ thống thoát nước mà không qua bất kỳ khâu xử
lý nào. Nước thải sinh hoạt chiếm khoảng 80% tổng số nước thải ở các thành phố, là
một nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm nước và vấn đề này có xu hướng
càng ngày càng xấu đi. Theo các nhà khoa học, cứ 1m3 nước thải lan toả làm ô
P
P
nhiễm 40-60m3 nước sạch. Nếu không có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời
P
P
nước thải sẽ gây ô nhiễm môi trường sống, lãng phí nguồn nước mặt, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe của con người.
Tại các đô thị lớn, hệ thống thoát nước dùng chung cho thoát nước mưa,
nước thải sinh hoạt, công nghiệp. Do hệ thống thoát nước không bảo đảm, vào mùa
mưa thường bị ngập lụt, nước bẩn tràn lên đường phố, chảy vào các hộ gia đình, ảnh
hưởng đến sức khoẻ, môi trường sống của người dân. Các thành phố lớn đa phần
chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hầu hết nước thải sinh hoạt từ các đô thị
ở khu dân cư, nhà hàng; nước thải của các cơ sở y tế, cơ sở công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp quy mô nhỏ… chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép đổ vào hệ
thống sông ngòi.
Theo số liệu thống kê tại Hà Nội, tổng lượng nước thải ngày đêm lên tới 500
ngàn m3, trong đó lượng nước thải công nghiệp là (85 – 90) ngàn m3. Tổng khối
P
P
P
P
lượng chất thải sinh hoạt từ (1.800 – 2.000) m3/ngày đêm, trong khi đó lượng thu
P
P
gom chỉ được 850 m3/ngày, phần còn lại được xả vào các khu đất ven các hồ, kênh
P
P
mương trong nội thành, nói chung các chất thải đều không qua xử lý nên gây ô
nhiễm; chỉ số oxy sinh hoá (BOD); oxy hoà tan; các chất NH 4 ; NO 2 ; NO 3 ; vượt quá
R
R
R
R
R
R
quy định nhiều lần. Nước ở các sông nội thành như Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ,
Sông Kim Ngưu có màu đen và hôi thối. Sông Nhuệ chịu ảnh hưởng nước thải của
thành phố Hà Nội có các loại độc chất như: phenol hàm lượng cao gấp 10 lần so với
tiêu chuẩn nước ăn uống sinh hoạt; hàm lượng chất hữu cơ, có vi khuẩn gây bệnh
cao; oxy hoà tan thấp... Có thể nói nước sông Nhuệ đoạn thuộc Hà Nội – Hà Tây là
không bảo đảm chất lượng cấp nước cho ăn uống sinh hoạt.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố với gần 5 triệu dân, tổng lượng nước thải
sinh hoạt khoảng 600.000 m3/ngày đêm, trong đó chỉ có 60% được xử lý sơ bộ. Nước
P
P
thải sinh hoạt cùng với nước thải từ các khu công nghiệp xả trực tiếp ra các kênh Nhiêu
Lộc, kênh Tân Hoà lan tỏa đi các sông Sài Gòn - Đồng Nai, Nhà Bè, Chợ Đệm, sông
Tranh… Hiện nay, lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai bị ô nhiễm trên diện rộng với
mức độ tăng dần từ thượng lưu đến hạ lưu, chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ, vi sinh vật và bị
axit hoá, một số khu vực hạ lưu bị ô nhiễm nặng. Qua các kết quả phân tích chất lượng
nước năm 2006 cho thấy, chất lượng nước tại các trạm đầu nguồn sông Sài Gòn - Đồng
Nai bị ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh.
/Nguồn: Epe.ede.vn/
1.1.2. Tác động của nước thải sinh hoạt đến môi trường và con người
1.1.2.1. Tác động của nước thải sinh hoạt tới môi trường
a. Gây ô nhiễm môi trường không khí
Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn
nước, theo hơi nước vào không khí làm cho mật độ bụi bẩn trong không khí tăng lên.
Không những vậy, các hơi nước này còn là giá bám cho các vi sinh vật và các loại khí
bẩn công nghiệp độc hại khác. Một số chất khí được hình thành do quá trình phân
hủy các hợp chất hữu cơ trong nước thải như SO 2 , CO 2 , CO,… ảnh hưởng nghiêm
R
R
R
R
trọng đến môi trường khí quyển và con người, gây ra các căn bệnh liên quan đến
đường hô hấp như: niêm mạc đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản mãn
tính, gây bệnh tim mạch, tăng mẫn cảm ở những người mắc bệnh hen,…
b. Tác động đến môi trường đất
Nước bị ô nhiễm mang nhiều chất hữu cơ và vô cơ thấm vào đất làm:
+ Liên kết giữa các hạt keo đất bị bẻ gãy, cấu trúc đất bị phá vỡ.
+ Vai trò đệm, tính oxy hóa, tính dẫn điện, dẫn nhiệt của môi trường đất thay đổi mạnh.
+ Thành phần hữu cơ giảm nhanh làm khả năng giữ nước của đất cũng bị thay đổi.
Một số chất hay ion có trong nước thải ảnh hưởng đến đất:
+ Quá trình oxy hóa các ion Fe2+ và Mn2+ có nồng độ cao tạo thành các axit không
P
P
P
P
tan Fe 2 O 3 và MnO 2 gây ra hiện tượng nước phèn dẫn đến đóng thành váng trên mặt
R
R
R
R
R
R
đất (đóng phèn)
+ Canxi, magie và các ion kim loại khác trong đất bị nước chứa axit cacbonic rửa
trôi thì đất sẽ bị chua hóa.
Khi các chất ô nhiễm từ nước thấm vào đất không những gây ảnh hưởng tới
đất mà còn ảnh hưởng đến các sinh vật đang sinh sống trong đất:
+ Các ion Fe2+ và Mn2+ ở nồng độ cao là các chất gây hại đối với thực vật.
P
P
P
P
+ Đồng (Cu) trong nguồn nước ô nhiễm từ các khu công nghiệp thải ra tuy ở nồng
độ trung bình nhưng cũng gây độc với các cây cối.
c. Tác động đến sinh vật trong nước
Ô nhiễm nước ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật trong nước, đặc biệt là
vùng sông, do nước chịu tác động của ô nhiễm nước nhiều nhất. Nhiều loại thủy
sinh do hấp thụ các chất độc trong nước với thời gian lâu ngày gây biến đổi cơ thể,
một số trường hợp gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới, một số trường hợp khác
làm cho nhiều loài thủy sinh chết.
1.1.2.2. Tác động của nước thải sinh hoạt tới con người
Hậu quả chung của tình trạng ô nhiễm nước do nước thải xả ra môi trường
bừa bãi là tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mạn tính liên quan đến ô nhiễm nước như
viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư… ngày càng tăng. Người dân sinh sống quanh
khu vực ô nhiễm ngày càng mắc nhiều loại bệnh nghi vấn là do dùng nước bẩn
trong sinh hoạt. Ngoài ra ô nhiễm nguồn nước còn gây tổn thất lớn cho các ngành
sản xuất kinh doanh, các hồ nuôi trồng thủy sản….
Các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy, việc xả thải nước thải độc hại chứa
kim loại nặng hoặc nước thải giàu nitơ và nhiều vi sinh vật có ảnh hưởng lớn đến
sức khoẻ con người:
Ảnh hưởng của nước chứa kim loại nặng
Khi sử dụng nước uống có hàm lượng asen cao trong thời gian dài có thể
xuất hiện những ảnh hưởng xấu như làm suy yếu chức năng gan, bệnh tiểu đường,
các loại ung thư nội tạng (bàng quang, gan, thận). Bệnh tim mạch, sạm da, mất sắc
tố da, cứng da, và rối loạn tuần hoàn ngoại biên là các triệu chứng do tiếp xúc
thường xuyên với Asen.
Nước nhiễm chì có độc tính cao đối với con người và động vật. Sự thâm
nhiễm chì vào cơ thể con người rất sớm từ tuần thứ 20 của thai kì và tiếp diễn suốt
kì mang thai. Trẻ em có mức hấp thụ chì cao gấp 3- 4 lần người lớn. Chì tích đọng ở
xương. Trẻ em dưới 6 tuổi và phụ nữ có thai là những đối tượng mẫn cảm với
những nguy hại của chì gây ra. Khi bị nhiễm độc, người bênh bị một số rối loạn cơ
thể, trong đó chủ yếu là rối loạn bộ phận tạo huyết (tủy xương). Tùy theo mức độ
nhiễm độc có thể gây ra những tai biến như đau bụng chì, đau khớp, viêm thận, cao
huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến mạch máu não nếu nặng có thể gây tử vong.
Thủy ngân vô cơ trong nước chủ yếu ảnh hưởng đến thận, trong khi đó,
methyl thủy ngân ảnh hưởng chính đến hệ thần kinh trung ương. Sau khi bị nhiễm
độc, người bệnh dễ cáu gắt, kích thích, xúc động, rối loạn tiêu hóa, rối loạn thần
kinh, viêm lợi, rung chân. Nếu bị nhiễm độc nặng có thể gây tử vong.
Hợp chất Cr+ rất độc có thể gây ung thư phổi, gây loét dạ dày, ruột non, viêm
P
P
gan, viêm thận, gây độc cho hệ thần kinh và tim.
Nước nhiễm Mangan với hàm lượng cao gây độc mạnh với nguyên sinh chất
của tế bào, đặc biệt là tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận và
bộ máy tuần hoàn, phổi, ngộ độc nặng và tử vong.
Nồng độ nirat trong nước cao
Nồng độ nirat trong nước cao có thể do phân hủy chất hữu cơ hoặc do ảnh hưởng
của chất thải ô nhiễm. Trong nước chứa hàm lượng nirat trên 10mg/l có thể gây bệnh
tím tái ở trẻ em. Người ta thấy hàm lượng mthemoglobin trong máu cao với cả trẻ em
và người lớn khi dùng nước có hàm lượng nirat cao hơn giới hạn cho phép.
Vi khuẩn trong nước thải:
Vi khuẩn có hại trong nước bị ô nhiễm có từ chất thải sinh hoạt của con
người và động vật như bệnh tả, thương hàn và bại liệt.
Bảng 1.2 : Các bệnh lây lan qua đường nước thải sinh hoạt
Bệnh
1995
1996
1999
2000
2001
2002
Tả
4.886
491
219
176
16
317
Thương hàn
30.900
23.310
6.874
4.367
9.614
7.090
Lỵ
48.350
57.860
138.259
149.180
269.610
174.722
Ỉa chảy
573.300
589.700
975.200
984.617
1.055.178
1.062.440
Sốt virut
80.447
89.963
35.868
25.269
42.878
28.728
Sốt rét
666.153
532.806
31.529
293.016
257.793
185.629
/ Nguồn: www.doko.vn/
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm
môi trường nước, ô nhiễm nước thải nói chung và nước thải sinh hoạt nói riêng trở
thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Vấn đề ô nhiễm nước thải sinh hoạt là loại ô
nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con
người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Ô nhiễm nước thải sinh hoạt
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, ngoài ra chúng còn ảnh hưởng đến hệ sinh
thái, môi trường. Từ những ảnh hưởng, thành phần, tính chất,.. của nước thải sinh
hoạt mà ta tìm ra các phương pháp công nghệ xử lý phù hợp, khắc phục tình trạng ô
nhiễm nước thải sinh hoạt hiện nay.
1.2. Phương thức xử lý nước thải đô thị ở Việt Nam
Hiện nay có hai xu hướng xử lý nước thải, đó là xử lý tập trung và xử lý
phân tán. Mỗi xu hướng đều có những ưu điểm riêng, tùy thuộc vào đặc điểm của
từng địa phương mà có thể lựa chọn hình thức xử lý cho phù hợp.
1.2.1. Xử lý nước thải phân tán
Trong các đô thị lớn do khó khăn và không kinh tế trong việc xây dựng các
tuyến cống thoát nước quá dài khi địa hình bằng phẳng và mực nước ngầm cao,
người ta thường quy hoạch thoát nước thải thành hệ thống phân tán theo các lưu vực
sông, hồ. Do đặc điểm địa hình và sự hình thành các kênh hồ trong các đô thị nước