Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )
Năng lực và các nguồn lực cần thiết của hệ thống các cơ quan quản lý cũng
như lực lượng giám sát thi hành luật pháp về BVMT chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu
cầu công tác thực tế. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước
thải nói chung cũng như nước thải sinh hoạt đô thị nói riêng còn chồng chéo và có
những khoảng trống.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức, dẫn đến
buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát và cưỡng chế
thực thi pháp luật. Do vậy, việc xả nước thải chưa xử lý triệt để đảm bảo tiêu chuẩn
xả thải đôi lúc vẫn còn xảy ra. Công tác tuyên truyền, giáo dục về BVMT trong xã
hội còn hạn chế, chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân, cộng đồng trong việc tham gia, hỗ trợ hệ thống quản lý nhà nước giám sát thi
hành pháp luật về BVMT.
GIẢI PHÁP:
Do đó nghiên cứu này xin đề xuất những đổi mới trong quản lý và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các nhà máy XLNT như sau:
3.1.1. Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật quản lý và vận hành nhà máy
Tại các trạm XLNT nhu cầu về người làm đúng chuyên môn, nhu cầu tại chỗ
về đào tạo, tập huấn, tăng cường năng lực cho cán bộ công nhân vận hành còn rất
lớn. Do đó, cần chú trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp
nhận và vận hành trạm XLNT...
Công nhân vận hành các công trình XLNT phải được hướng dẫn về quy trình
vận hành các công trình, các nguyên tắc về an toàn lao động và phòng cháy, chữa
cháy, an toàn điện, an toàn hóa chất, các biện pháp phòng ngừa và khắc phục sự cố...
Các cán bộ kỹ thuật phải thực hiện được các nhiệm vụ chuyên môn cơ bản như:
- Bảo đảm chế độ làm việc bình thường của từng công trình và của toàn trạm;
- Bảo đảm việc sửa chữa thường kỳ và sửa chữa lớn các công trình và thiết bị;
- Theo dõi việc ghi sổ trực của công nhân vận hành công trình;
- Lập các báo cáo kỹ thuật về quản lý công trình hàng tháng và hàng năm;
- Bảo quản các hồ sơ kỹ thuật tất cả các công trình và bổ sung các tính năng
kỹ thuật các thiết bị, công trình vào các hồ sơ này trong quá trình quản lý;
- Nghiên cứu chế độ hoạt động của từng công trình để hoàn thiện và cải tiến
quy trình vận hành, bảo dưỡng...
- Có điều kiện tham gia các lớp học nâng cao trình độ cho công nhân, giới
thiệu các nguyên tắc về an toàn lao động, phòng cháy, chữa cháy,...
Các cán bộ kỹ thuật chỉ mới được hướng dẫn sơ bộ vận hành khi mới bắt đầu
bàn giao nhà máy và sau đó không có chương trình bồi dưỡng hàng năm, như các
cán bộ ở các nhà máy Kim Liên, Bắc Giang...Vì vậy cần thường xuyên bồi dưỡng,
nâng cao năng lực cán bộ kỹ thuật vận hành trong việc:
- Kiểm tra hoạt động các thiết bị định kỳ
- Phát hiện và khắc phục kịp thời khi có sự cố. Chẳng hạn ở nhà máy XLNT
Bắc Giang thường xuyên gặp sự cố về song chắn rác (do không xử lý và loại bỏ rác
ở song thường xuyên), hỏng bơm, trục trặc hệ thống điều khiển tự động...
- Phân tích chất lượng nước thường xuyên định kỳ hàng tuần
- Nâng cao năng lực vận hành theo sách hướng dẫn vận hành
- Nâng cao năng lực điều khiển tự động nhà máy bằng hệ thống điều khiển
trung tâm
Muốn vậy, các cán bộ kỹ thuật trước hết phải là người được đào tạo bài bản về
quản lý vận hành các công trình cấp thoát nước. Điều đó có nghĩa là các trường đại
học và cao đẳng kỹ thuật cần có chuyên ngành về vận hành và quản lý các công
trình xử lý nước. Trong đó, sẽ hướng dẫn cán bộ cách vận hành một số công nghệ
xử lý thông dụng và hiện đại, cũng như cách khắc phục những sự cố thường xảy ra.
Trong giai đoạn trước mắt chưa có nguồn cán bộ được đào tạo như vậy, thì
định kỳ ba tháng hoặc sáu tháng một lần cử cán bộ hoặc mời chuyên gia kỹ
thuật/công nghệ môi trường xuống đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn để cập nhật
thông tin cũng như giải quyết các tình huống xảy ra ở nhà máy.
3.1.2. Đổi mới phương pháp quản lý nhà nước đối với các trạm xử lý nước thải
Áp dụng mô hình năng động hơn, tiên tiến hơn trong quản lý nhà máy XLNT
Hiện nay việc quản lý NMXLNT vẫn thường được thực hiện bởi công ty Thoát
nước (TNHH nhà nước một thành viên) chưa thực sự năng động, và còn phụ thuộc
nhiều vào nhà nước. Có lẽ đã đến lúc cần áp dụng các mô hình khác năng động hơn
như mô hình PPP (Public Private Partnership hay công-tư kết hợp) hoặc cổ phần
hoá...Khi đó tính tích cực trong quản lý, cung cấp dịch vụ sẽ được đề cao hơn.
Hình thức PPP là hợp tác công - tư mà theo đó nhà nước cho phép tư nhân
cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước.
Hiện nay, trên thế giới PPP có 5 hình thức nhưng hình thức phổ biến nhất ở Viêt
Nam là xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT). Đây là mô hình mà ở đó công ty
thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình trong một thời
gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước. Hoặc mô hình khác là nhà
nước xây dựng và thuê công ty tư nhân quản lý và vận hành.
Áp dụng mô hình hợp tác công tư trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các
dịch vụ công được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này. Một
nghiên cứu ở 3 trạm XLNT (Kim Liên, Trúc Bạch và Bắc Thăng Long Vân Trì) ở
Hà Nội trong việc sử dụng công tác vận hành và bảo dưỡng theo hình thức hợp tác
công tư (PPP) giữa UBND thành phố Hà Nội (đại diện là Công ty TNHH một thành
viên thoát nước Hà Nội (HSDC)) với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã
cho thấy những ưu điểm của việc áp dụng mô hình PPP trong công tác vận hành và
bảo dưỡng tại các công trình xử lý nước thải hiện có. Do đó, mô hình này được
khuyến khích áp dụng đối với công tác xây dựng, vận hành và bảo dưỡng các trạm
xử lý nước thải về sau như NMXLNT Yên Sở và Bảy Mẫu. Việc huy động nguồn
vốn tư nhân của các dự án PPP về hạ tầng kỹ thuật sẽ nâng cao hiệu quả trong việc
xây dựng mới và bảo dưỡng các trạm xử lý nước thải.
Phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong quản lý tổng thể
Để hạn chế việc xả nước thải ô nhiễm, nhà nước cần có các biện pháp, chế
tài, đưa ra các lộ trình bắt buộc các đơn vị phải xử lý nước thải, đổi mới công nghệ.
Nước thải trước khi xả ra hệ thống thoát nước phải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường.
Cơ quan chuyên môn cần đẩy mạnh công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, yêu cầu
các cơ sở sản xuất phải có biện pháp xử lý nước thải trước khi xả ra ngoài.
Cần tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận
thức và ý thức của cộng đồng và chủ đầu tư về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô
nhiễm. Theo dõi, thu thập thông tin thường xuyên. Phát triển mạng lưới cộng tác
viên, nhân dân, phát hiện kịp thời các hành vi sai phạm. Xây dựng mối quan hệ đối
tác, cùng chung tay bảo vệ sức khỏe cộng đồng và BVMT, đồng thời bảo vệ quyền
lợi, sự công bằng của những doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, bên cạnh việc kiên
quyết xử lý các vi phạm.
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước thải sinh hoạt,
khắc phục những chồng chéo và những khoảng trống. Xây dựng quy trình cụ thể, rõ
ràng về trách nhiệm và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát Môi trường, sự phối hợp
với các cơ quan khác như: Thanh tra, Chi cục BVMT địa phương, các chế tài xử lý
vi phạm.
Xây dựng các chương trình, dự án tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường một cách dài hạn, bài bản, có hệ thống.
Sử dụng các chỉ thị sinh học (nhất là ở khu vực nguồn tiếp nhận nước thải),
các phương pháp đánh giá nhanh, kết hợp với các phương thức quan trắc truyền
thống. Bên cạnh các chỉ tiêu về nước thải, cần quan tâm đến kiểm tra xử lý mùi,
tiếng ồn, bùn và CTR các loại từ trạm XLNT.
3.2. Giải pháp kỹ thuật
Cùng với những hạn chế trong quản lý, vấn đề kỹ thuật trong hoạt động
XLNT vẫn còn nhiều tồn tại:
Chất lượng nước đầu vào không phù hợp
Nước thải sinh hoạt ở các đô thị của Việt Nam, là loại nước thải được thu gom
từ hệ thống thoát nước chung đảm nhận thu gom và vận chuyển nhiều loại nước thải
khác nhau và cả nước mưa. Do đó, hàm lượng chất ô nhiễm đã bị pha loãng (nồng
độ chất hữu cơ từ 100-250 mg/L) tuy nhiên các thành phần Nitơ và Phốt pho vẫn ở
mức cao. Các công nghệ xử lý nước thải truyền thống như màng vi sinh vật, bùn
hoạt tính có hiệu quả xử lý các chất hữu cơ rất tốt, nhưng không đáp ứng yêu cầu xả
thải nghiêm ngặt về chất dinh dưỡng (QCVN 40:2012; QCVN 08:2008, QCVN
09:2008/ BTNMT)
Phần lớn các trạm/nhà máy XLNT đều được thiết kế dựa trên kinh nghiệm của
nhà thầu, mà không có đầy đủ thông tin về số lượng, thành phần, tính chất nước thải
đầu vào. Khi chưa có nước thải thực tế, các nhà thầu đề xuất nhà máy XLNT với
kích thước công trình tối thiểu để giảm giá thành và thắng thầu. Khi đưa vào hoạt
động, các nhà máy XLNT không có điều kiện để điều chỉnh chế độ vận hành phù
hợp với đặc tính nước thải thực tế, dẫn đến tình trạng nhà máy XLNT hoạt động
kém hiệu quả. Một số nhà thầu đưa ra phương án với giả thiết ràng buộc giá trị một
số chỉ tiêu chất lượng nước đầu vào nhà máy, để chối bỏ trách nhiệm khi xảy ra sự
cố. Trong nhiều trường hợp, khi nhà máy XLNT hoạt động hết công suất và các vấn
đề quá tải, sự cố... xảy ra thì thời hạn bảo hành đối với công trình đã kết thúc, và
trách nhiệm thuộc về chủ đầu tư hay đơn vị khai thác vận hành XLNT chứ không
phải nhà thầu. Do vậy, nhiều nhà máy/trạm xử lý nước thải, khi xây dựng với kinh
phí đầu tư lớn nhưng không hoạt động. Hệ quả là hiệu suất xử lý rất thấp (Nguyễn
Việt Anh, 2011).
Một số thiết bị được mua của nước ngoài, chưa được nhiệt đới hóa tốt để phù
hợp với điều kiện thời tiết khí hậu ở Việt Nam, nên ngay trong giai đoạn đầu hoạt
động đã có trục trặc hoặc sau một thời gian vận hành hệ thống xử lý không lâu đã bị
hỏng. Do đó ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến việc vận hành của toàn hệ thống.
Công nghệ chưa tính đến tiết kiệm năng lượng (thu hồi và tái sử dụng năng
lượng khí gas và nước)
Phần lớn các nhà máy xử lý có hệ thống bể/ngăn kị khí đều không thu hồi khí
gas, đồng thời nước thải sau xử lý không xử lý thêm để tái sử dụng mà thải ra nguồn
tiếp nhận (trừ NMXLNT Yên Sở). Do vậy, chưa góp phần vào công cuộc bảo vệ tài
nguyên, bảo vệ môi trường.
Kỹ thuật giám sát chất lượng nước xử lý còn sơ sài
Ở một số nhà máy không có phòng thí nghiệm tại trạm (như NM Kim Liên)
hoặc có phòng thí nghiệm sơ sài (như NM Bắc Giang) nên không thực hiện được
việc theo dõi hiệu quả xử lý thường xuyên, cũng như không theo dõi được sự biến
đổi của chất lượng dòng thải đầu vào để có thể thay đổi biện pháp kỹ thuật xử lý kịp
thời. Chẳng hạn, như ở NM Bắc Giang, do không kiểm tra chỉ tiêu Coliform ở nước
thải đầu ra mà vẫn áp dụng biện pháp không khử trùng để giảm thiểu chi phí hoạt
động, dẫn đến tình trạng nhà máy xử lý không triệt để mà xả thải nước thải chứa
nhiều vi trùng gây bệnh ra nguồn tiếp nhận (sông Thương) trong thời gian dài.
GIẢI PHÁP:
Do vậy, trong nghiên cứu này cũng sẽ đề xuất một số giải pháp mang tính kỹ
thuật để khắc phục những tồn tại trên như:
3.2.1. Đánh giá chất lượng nước đầu vào chính xác trước khi thiết kế dây chuyền
công nghệ
Như đã phân tích ở trên, chất lượng nước đầu vào thực tế khác biệt lớn đối
với chất lượng nước thiết kế. Như vậy, cần chú ý giảm thiểu sự khác biệt bằng các
biện pháp như:
- Nếu thành phố đã có hệ thống thoát nước, lấy mẫu nước thải tại vị trí trạm
bơm trung chuyển nước thải cuối cùng (ngay trước khi về trạm xử lý). Nếu dự án
xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải cùng thời điểm thì phải tham khảo
chất lượng nước thải của thành phố có địa hình, khí hậu và đặc điểm đô thị tương
tự. Đa số ở các thành phố ở Việt Nam đã có hệ thống thoát nước chung nên việc lấy
mẫu chủ yếu theo trường hợp 1.
- Việc lấy mẫu phải tiến hành vào mùa khô và mùa mưa. Số lượng mẫu cho
mỗi đợt ít nhất là 3 mẫu cho mỗi mùa để so sánh.
- Mẫu nước thải phải gửi đến hai địa điểm phân tích để so sánh và đối chứng
kết quả.
Tóm lại, mẫu nước thải phải phán ánh được đặc trưng của hệ thống thoát
nước (hở, kín), đặc điểm khí hậu (mưa nhiều hay ít, xâm nhập nước ngầm, nước
mặn), đặc điểm đô thị (nước thải sinh hoạt hay công nghiệp nhiều, khối lượng nước
thải và sự dao động). Từ đó hiểu được sự biến động về chất lượng nước thải.
3.2.2. Điều chỉnh dây chuyền công nghệ để tăng cường việc tái sử dụng năng
lượng
Việc lựa chọn các công nghệ xử lý nước thải dùng phương pháp sinh học
dùng bùn hoạt tính nói chung thường ổn định và chi phí rẻ hơn so với các phương
pháp xử lý khác như dùng công nghệ màng hoặc dùng vật liệu lọc di động (MMBR)
hay cố định (FMBR). Tuy nhiên chất lượng nước đầu ra thường chỉ đủ để đáp ứng
tiêu chuẩn xả thải ra nguồn tiếp nhận. Do đó cần điều chỉnh dây chuyền để tăng
cường khả năng tái sử dụng năng lượng, cụ thể như:
- Trước mắt, nên đầu tư cho các đề tài nghiên cứu triển khai về vấn đề tái sử
dụng nước thải sinh hoạt trong các nhà máy và nước thải sau xử lý của các nhà máy
XLNT. Những nước này sau khi xử lý bậc 3 có thể dùng để tưới tiêu an toàn trong
nông nghiệp, tưới cây, làm nguội/mát trong công nghiệp, dội rửa tollet, rửa xe cộ,
phòng cháy chữa cháy và bổ cập nguồn nước ngầm. Khí biogas từ bể xử lý kị khí có
thể dùng để thực hiện cho việc cung cấp năng lượng đốt hoặc sản xuất điện dùng
trong nhà máy.
- Về lâu dài, cần hướng tới việc thiết kế, xây dựng nhà máy XLNT tiên tiến,
thân thiện với môi trường và bền vững. Áp dụng các biện pháp như :
+ Chọn vị trí và bố trí mặt bằng các công trình hợp lý;
+ Các giải pháp thay thế Clo để khử trùng nước thải sau xử lý;
+ Đặc biệt quan tâm đến việc xử lý và thải bỏ bùn,
+ Tái sử dụng/tuần hoàn nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng
khác trong trạm XLNT;
Các công trình xử lý bậc 3 có thể sử dụng là công nghệ màng lọc, trao đổi
ion, than hoạt tính...Sau đó nước sẽ được khử trùng và đưa đi phục vụ các mục đích
khác nhau. Dây chuyền phục vụ mục đích tái sử dụng có thể là:
Nước thải
Bể kỵ khí
Bể thiếu khí
Bể hiếu khí + MBR
(Anaerobic
)
(Anoxic)
(UF,Aerobic)
Thu hồi khí
biogas
Màng RO
Tái sử dụng
cho mục
đích không
phải ăn
uống*
Tái sử dụng
cho mục
đích ăn
uống
Hình 2.20: Sơ đồ dây chuyền công nghệ có thể áp dụng cho mục đích tái sử dụng năng
lượng
(*Mục đích không ăn uống bao gồm tưới tiêu, tưới cây, làm nguội/mát trong công
nghiệp, dội rửa tollet, rửa xe cộ, phòng cháy chữa cháy và bổ cập nguồn nước
ngầm)
3.2.3. Nâng cao năng lực theo dõi, quan trắc chất lượng nước xử lý
Năng lực kiểm soát chất lượng nước thải cũng như kiểm soát hiệu quả xử lý
tại các nhà máy có thể thực hiện qua việc lắp đặt hệ thống quan trắc trực tuyến
(online monitoring system) nước thải. Qua đó có thể thu thập được rất nhiều thông
tin để đánh giá hoạt động của nhà máy/ trạm XLNT. Ví dụ ở khu công nghiệp Mỹ
Phước 3-4 đã được lắp đặt và vận hành hệ thống quan trắc nước thải. Có 5 thông số
được giám sát và lưu trữ liên tục: Lưu lượng, pH, DO, TSS và EC. Trạm quan trắc
đã vận hành khá tốt. Thông tin, số liệu thu được có thể phục vụ cho công việc theo
dõi, đánh giá, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Với chỉ 5
thông số quan trắc ở trên, đã có rất nhiều thông tin để đánh giá hoạt động của nhà
máy xử lý. Điều này cho thấy, việc lắp đặt trạm quan trắc trực tuyến để giám sát
nước thải sau xử lý của các nhà máy với đầy đủ các thống số giám sát được chỉ ra
trong Thông tư 08-2009/BTNMT là rất ý nghĩa và hết sức cần thiết (Nguyễn Việt
Anh, 2011).
3.3. Kết luận chương 3
Căn cứ vào kết quả đánh giá, đề tài đã đề xuất được một hệ thống các giải
pháp bao gồm giải pháp phi kỹ thuật và các giải pháp kỹ thuật như:
+ Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật quản lý và vận hành nhà máy
+ Đổi mới phương pháp quản lý nhà nước đối với các trạm xử lý nước thải
+ Điều chỉnh dây chuyền công nghệ để tăng cường việc tái sử dụng năng lượng
+ Nâng cao năng lực theo dõi, quan trắc chất lượng nước xử lý
Các đề xuất này không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả xử lý cho các nhà máy
XLNT tập trung hiện hữu mà còn giúp nâng cao hiệu quả đầu tư, góp phần đẩy
mạnh công tác bảo vệ môi trường và tái sử dụng nguồn năng lượng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau khi nghiên cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của các trạm/nhà máy xử lý
nước thải ở thành phố Hà Nội và thành phố Bắc Giang cho thấy công nghệ sử dụng
ở các trạm này là những công nghệ rất hiện đại, cho hiệu suất xử lý cao. Qua nghiên
cứu cho thấy, nước thải trong hệ thống thoát nước chủ yếu phát sinh từ các hoạt
động sinh hoạt của người dân và chỉ chứa một lượng nhỏ nước thải công nghiệp. Do
đó, thành phần chất hữu cơ trong nước thải dễ dàng bị phân hủy bởi các vi sinh vật.
Các trạm xử lý nước thải đều đạt hiệu suất xử lý chất hữu cơ (theo chỉ tiêu BOD và
COD), tuy nhiên lượng chất hữu cơ thấp có thể không đủ cho quá trình xử lý Nitơ
và Phốt pho. Vào mùa mưa, khi nước thải được pha loãng với nước mưa, hiệu quả
của quá trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học giảm, đặc biệt là quá trình
xử lý Phốtpho. Trong thời kỳ này có trạm phải sử dụng nguồn chất hữu cơ ở bên
ngoài để nâng cao hiệu quả xử lý chất dinh dưỡng.
Ngoài ra, việc quản lý vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước
thải chưa được quan tâm. Công nhân vận hành và cán bộ kỹ thuật chưa được đào
tạo đầy đủ nên lúng túng khi vận hành, hệ quả là phải chi phí tốn kém cho việc sửa
chữa. Đây không chỉ đơn thuần là quản lý kỹ thuật, mà còn liên quan đến chi phí
kinh tế. Do vậy nhiều nhà máy/trạm xử lý nước thải, khi xây dựng với kinh phí đầu
tư lớn nhưng không hoạt động hiệu quả. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu
đánh giá một cách nghiêm túc.
2. Kiến nghị
Ở Việt Nam công nghệ xử lý nước cấp đã được nghiên cứu khá kỹ cả về lý
thuyết và thực tế, tuy nhiên đối với xử lý nước thải đô thị mới đang được nghiên
cứu lý thuyết dựa trên các công thức tính toán và vận hành ở nước ngoài mà chưa