1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Qua khảo sát và phân tích những nhà máy XLNT Kim Liên, Yên Sở và Bắc Giang cũng như tham khảo tài liệu của những nhà máy XLNT nói chung ở Việt Nam cho thấy việc quản lý, vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước thải với mọi cấp độ và quy mô đang...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )


Năng lực và các nguồn lực cần thiết của hệ thống các cơ quan quản lý cũng

như lực lượng giám sát thi hành luật pháp về BVMT chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu

cầu công tác thực tế. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước

thải nói chung cũng như nước thải sinh hoạt đô thị nói riêng còn chồng chéo và có

những khoảng trống.

Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức, dẫn đến

buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát và cưỡng chế

thực thi pháp luật. Do vậy, việc xả nước thải chưa xử lý triệt để đảm bảo tiêu chuẩn

xả thải đôi lúc vẫn còn xảy ra. Công tác tuyên truyền, giáo dục về BVMT trong xã

hội còn hạn chế, chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá

nhân, cộng đồng trong việc tham gia, hỗ trợ hệ thống quản lý nhà nước giám sát thi

hành pháp luật về BVMT.





GIẢI PHÁP:

Do đó nghiên cứu này xin đề xuất những đổi mới trong quản lý và nâng cao



hiệu quả hoạt động của các nhà máy XLNT như sau:

3.1.1. Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật quản lý và vận hành nhà máy

Tại các trạm XLNT nhu cầu về người làm đúng chuyên môn, nhu cầu tại chỗ

về đào tạo, tập huấn, tăng cường năng lực cho cán bộ công nhân vận hành còn rất

lớn. Do đó, cần chú trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp

nhận và vận hành trạm XLNT...

Công nhân vận hành các công trình XLNT phải được hướng dẫn về quy trình

vận hành các công trình, các nguyên tắc về an toàn lao động và phòng cháy, chữa

cháy, an toàn điện, an toàn hóa chất, các biện pháp phòng ngừa và khắc phục sự cố...

Các cán bộ kỹ thuật phải thực hiện được các nhiệm vụ chuyên môn cơ bản như:

- Bảo đảm chế độ làm việc bình thường của từng công trình và của toàn trạm;



- Bảo đảm việc sửa chữa thường kỳ và sửa chữa lớn các công trình và thiết bị;

- Theo dõi việc ghi sổ trực của công nhân vận hành công trình;

- Lập các báo cáo kỹ thuật về quản lý công trình hàng tháng và hàng năm;

- Bảo quản các hồ sơ kỹ thuật tất cả các công trình và bổ sung các tính năng



kỹ thuật các thiết bị, công trình vào các hồ sơ này trong quá trình quản lý;

- Nghiên cứu chế độ hoạt động của từng công trình để hoàn thiện và cải tiến



quy trình vận hành, bảo dưỡng...

- Có điều kiện tham gia các lớp học nâng cao trình độ cho công nhân, giới



thiệu các nguyên tắc về an toàn lao động, phòng cháy, chữa cháy,...

Các cán bộ kỹ thuật chỉ mới được hướng dẫn sơ bộ vận hành khi mới bắt đầu

bàn giao nhà máy và sau đó không có chương trình bồi dưỡng hàng năm, như các

cán bộ ở các nhà máy Kim Liên, Bắc Giang...Vì vậy cần thường xuyên bồi dưỡng,

nâng cao năng lực cán bộ kỹ thuật vận hành trong việc:

- Kiểm tra hoạt động các thiết bị định kỳ

- Phát hiện và khắc phục kịp thời khi có sự cố. Chẳng hạn ở nhà máy XLNT



Bắc Giang thường xuyên gặp sự cố về song chắn rác (do không xử lý và loại bỏ rác

ở song thường xuyên), hỏng bơm, trục trặc hệ thống điều khiển tự động...

- Phân tích chất lượng nước thường xuyên định kỳ hàng tuần

- Nâng cao năng lực vận hành theo sách hướng dẫn vận hành

- Nâng cao năng lực điều khiển tự động nhà máy bằng hệ thống điều khiển



trung tâm

Muốn vậy, các cán bộ kỹ thuật trước hết phải là người được đào tạo bài bản về

quản lý vận hành các công trình cấp thoát nước. Điều đó có nghĩa là các trường đại

học và cao đẳng kỹ thuật cần có chuyên ngành về vận hành và quản lý các công

trình xử lý nước. Trong đó, sẽ hướng dẫn cán bộ cách vận hành một số công nghệ

xử lý thông dụng và hiện đại, cũng như cách khắc phục những sự cố thường xảy ra.



Trong giai đoạn trước mắt chưa có nguồn cán bộ được đào tạo như vậy, thì

định kỳ ba tháng hoặc sáu tháng một lần cử cán bộ hoặc mời chuyên gia kỹ

thuật/công nghệ môi trường xuống đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn để cập nhật

thông tin cũng như giải quyết các tình huống xảy ra ở nhà máy.

3.1.2. Đổi mới phương pháp quản lý nhà nước đối với các trạm xử lý nước thải

 Áp dụng mô hình năng động hơn, tiên tiến hơn trong quản lý nhà máy XLNT

Hiện nay việc quản lý NMXLNT vẫn thường được thực hiện bởi công ty Thoát

nước (TNHH nhà nước một thành viên) chưa thực sự năng động, và còn phụ thuộc

nhiều vào nhà nước. Có lẽ đã đến lúc cần áp dụng các mô hình khác năng động hơn

như mô hình PPP (Public Private Partnership hay công-tư kết hợp) hoặc cổ phần

hoá...Khi đó tính tích cực trong quản lý, cung cấp dịch vụ sẽ được đề cao hơn.

Hình thức PPP là hợp tác công - tư mà theo đó nhà nước cho phép tư nhân

cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước.

Hiện nay, trên thế giới PPP có 5 hình thức nhưng hình thức phổ biến nhất ở Viêt

Nam là xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT). Đây là mô hình mà ở đó công ty

thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình trong một thời

gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước. Hoặc mô hình khác là nhà

nước xây dựng và thuê công ty tư nhân quản lý và vận hành.

Áp dụng mô hình hợp tác công tư trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các

dịch vụ công được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này. Một

nghiên cứu ở 3 trạm XLNT (Kim Liên, Trúc Bạch và Bắc Thăng Long Vân Trì) ở

Hà Nội trong việc sử dụng công tác vận hành và bảo dưỡng theo hình thức hợp tác

công tư (PPP) giữa UBND thành phố Hà Nội (đại diện là Công ty TNHH một thành

viên thoát nước Hà Nội (HSDC)) với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã

cho thấy những ưu điểm của việc áp dụng mô hình PPP trong công tác vận hành và

bảo dưỡng tại các công trình xử lý nước thải hiện có. Do đó, mô hình này được



khuyến khích áp dụng đối với công tác xây dựng, vận hành và bảo dưỡng các trạm

xử lý nước thải về sau như NMXLNT Yên Sở và Bảy Mẫu. Việc huy động nguồn

vốn tư nhân của các dự án PPP về hạ tầng kỹ thuật sẽ nâng cao hiệu quả trong việc

xây dựng mới và bảo dưỡng các trạm xử lý nước thải.

 Phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong quản lý tổng thể

Để hạn chế việc xả nước thải ô nhiễm, nhà nước cần có các biện pháp, chế

tài, đưa ra các lộ trình bắt buộc các đơn vị phải xử lý nước thải, đổi mới công nghệ.

Nước thải trước khi xả ra hệ thống thoát nước phải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường.

Cơ quan chuyên môn cần đẩy mạnh công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, yêu cầu

các cơ sở sản xuất phải có biện pháp xử lý nước thải trước khi xả ra ngoài.

Cần tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận

thức và ý thức của cộng đồng và chủ đầu tư về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô

nhiễm. Theo dõi, thu thập thông tin thường xuyên. Phát triển mạng lưới cộng tác

viên, nhân dân, phát hiện kịp thời các hành vi sai phạm. Xây dựng mối quan hệ đối

tác, cùng chung tay bảo vệ sức khỏe cộng đồng và BVMT, đồng thời bảo vệ quyền

lợi, sự công bằng của những doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, bên cạnh việc kiên

quyết xử lý các vi phạm.

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước thải sinh hoạt,

khắc phục những chồng chéo và những khoảng trống. Xây dựng quy trình cụ thể, rõ

ràng về trách nhiệm và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát Môi trường, sự phối hợp

với các cơ quan khác như: Thanh tra, Chi cục BVMT địa phương, các chế tài xử lý

vi phạm.

Xây dựng các chương trình, dự án tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ

quản lý môi trường một cách dài hạn, bài bản, có hệ thống.

Sử dụng các chỉ thị sinh học (nhất là ở khu vực nguồn tiếp nhận nước thải),

các phương pháp đánh giá nhanh, kết hợp với các phương thức quan trắc truyền



thống. Bên cạnh các chỉ tiêu về nước thải, cần quan tâm đến kiểm tra xử lý mùi,

tiếng ồn, bùn và CTR các loại từ trạm XLNT.

3.2. Giải pháp kỹ thuật

Cùng với những hạn chế trong quản lý, vấn đề kỹ thuật trong hoạt động

XLNT vẫn còn nhiều tồn tại:

 Chất lượng nước đầu vào không phù hợp

Nước thải sinh hoạt ở các đô thị của Việt Nam, là loại nước thải được thu gom

từ hệ thống thoát nước chung đảm nhận thu gom và vận chuyển nhiều loại nước thải

khác nhau và cả nước mưa. Do đó, hàm lượng chất ô nhiễm đã bị pha loãng (nồng

độ chất hữu cơ từ 100-250 mg/L) tuy nhiên các thành phần Nitơ và Phốt pho vẫn ở

mức cao. Các công nghệ xử lý nước thải truyền thống như màng vi sinh vật, bùn

hoạt tính có hiệu quả xử lý các chất hữu cơ rất tốt, nhưng không đáp ứng yêu cầu xả

thải nghiêm ngặt về chất dinh dưỡng (QCVN 40:2012; QCVN 08:2008, QCVN

09:2008/ BTNMT)

Phần lớn các trạm/nhà máy XLNT đều được thiết kế dựa trên kinh nghiệm của

nhà thầu, mà không có đầy đủ thông tin về số lượng, thành phần, tính chất nước thải

đầu vào. Khi chưa có nước thải thực tế, các nhà thầu đề xuất nhà máy XLNT với

kích thước công trình tối thiểu để giảm giá thành và thắng thầu. Khi đưa vào hoạt

động, các nhà máy XLNT không có điều kiện để điều chỉnh chế độ vận hành phù

hợp với đặc tính nước thải thực tế, dẫn đến tình trạng nhà máy XLNT hoạt động

kém hiệu quả. Một số nhà thầu đưa ra phương án với giả thiết ràng buộc giá trị một

số chỉ tiêu chất lượng nước đầu vào nhà máy, để chối bỏ trách nhiệm khi xảy ra sự

cố. Trong nhiều trường hợp, khi nhà máy XLNT hoạt động hết công suất và các vấn

đề quá tải, sự cố... xảy ra thì thời hạn bảo hành đối với công trình đã kết thúc, và

trách nhiệm thuộc về chủ đầu tư hay đơn vị khai thác vận hành XLNT chứ không



phải nhà thầu. Do vậy, nhiều nhà máy/trạm xử lý nước thải, khi xây dựng với kinh

phí đầu tư lớn nhưng không hoạt động. Hệ quả là hiệu suất xử lý rất thấp (Nguyễn

Việt Anh, 2011).

Một số thiết bị được mua của nước ngoài, chưa được nhiệt đới hóa tốt để phù

hợp với điều kiện thời tiết khí hậu ở Việt Nam, nên ngay trong giai đoạn đầu hoạt

động đã có trục trặc hoặc sau một thời gian vận hành hệ thống xử lý không lâu đã bị

hỏng. Do đó ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến việc vận hành của toàn hệ thống.

 Công nghệ chưa tính đến tiết kiệm năng lượng (thu hồi và tái sử dụng năng

lượng khí gas và nước)

Phần lớn các nhà máy xử lý có hệ thống bể/ngăn kị khí đều không thu hồi khí

gas, đồng thời nước thải sau xử lý không xử lý thêm để tái sử dụng mà thải ra nguồn

tiếp nhận (trừ NMXLNT Yên Sở). Do vậy, chưa góp phần vào công cuộc bảo vệ tài

nguyên, bảo vệ môi trường.

 Kỹ thuật giám sát chất lượng nước xử lý còn sơ sài

Ở một số nhà máy không có phòng thí nghiệm tại trạm (như NM Kim Liên)

hoặc có phòng thí nghiệm sơ sài (như NM Bắc Giang) nên không thực hiện được

việc theo dõi hiệu quả xử lý thường xuyên, cũng như không theo dõi được sự biến

đổi của chất lượng dòng thải đầu vào để có thể thay đổi biện pháp kỹ thuật xử lý kịp

thời. Chẳng hạn, như ở NM Bắc Giang, do không kiểm tra chỉ tiêu Coliform ở nước

thải đầu ra mà vẫn áp dụng biện pháp không khử trùng để giảm thiểu chi phí hoạt

động, dẫn đến tình trạng nhà máy xử lý không triệt để mà xả thải nước thải chứa

nhiều vi trùng gây bệnh ra nguồn tiếp nhận (sông Thương) trong thời gian dài.





GIẢI PHÁP:



Do vậy, trong nghiên cứu này cũng sẽ đề xuất một số giải pháp mang tính kỹ

thuật để khắc phục những tồn tại trên như:

3.2.1. Đánh giá chất lượng nước đầu vào chính xác trước khi thiết kế dây chuyền

công nghệ

Như đã phân tích ở trên, chất lượng nước đầu vào thực tế khác biệt lớn đối

với chất lượng nước thiết kế. Như vậy, cần chú ý giảm thiểu sự khác biệt bằng các

biện pháp như:

- Nếu thành phố đã có hệ thống thoát nước, lấy mẫu nước thải tại vị trí trạm

bơm trung chuyển nước thải cuối cùng (ngay trước khi về trạm xử lý). Nếu dự án

xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải cùng thời điểm thì phải tham khảo

chất lượng nước thải của thành phố có địa hình, khí hậu và đặc điểm đô thị tương

tự. Đa số ở các thành phố ở Việt Nam đã có hệ thống thoát nước chung nên việc lấy

mẫu chủ yếu theo trường hợp 1.

- Việc lấy mẫu phải tiến hành vào mùa khô và mùa mưa. Số lượng mẫu cho

mỗi đợt ít nhất là 3 mẫu cho mỗi mùa để so sánh.

- Mẫu nước thải phải gửi đến hai địa điểm phân tích để so sánh và đối chứng

kết quả.

Tóm lại, mẫu nước thải phải phán ánh được đặc trưng của hệ thống thoát

nước (hở, kín), đặc điểm khí hậu (mưa nhiều hay ít, xâm nhập nước ngầm, nước

mặn), đặc điểm đô thị (nước thải sinh hoạt hay công nghiệp nhiều, khối lượng nước

thải và sự dao động). Từ đó hiểu được sự biến động về chất lượng nước thải.



3.2.2. Điều chỉnh dây chuyền công nghệ để tăng cường việc tái sử dụng năng

lượng

Việc lựa chọn các công nghệ xử lý nước thải dùng phương pháp sinh học

dùng bùn hoạt tính nói chung thường ổn định và chi phí rẻ hơn so với các phương

pháp xử lý khác như dùng công nghệ màng hoặc dùng vật liệu lọc di động (MMBR)

hay cố định (FMBR). Tuy nhiên chất lượng nước đầu ra thường chỉ đủ để đáp ứng

tiêu chuẩn xả thải ra nguồn tiếp nhận. Do đó cần điều chỉnh dây chuyền để tăng

cường khả năng tái sử dụng năng lượng, cụ thể như:

- Trước mắt, nên đầu tư cho các đề tài nghiên cứu triển khai về vấn đề tái sử

dụng nước thải sinh hoạt trong các nhà máy và nước thải sau xử lý của các nhà máy

XLNT. Những nước này sau khi xử lý bậc 3 có thể dùng để tưới tiêu an toàn trong

nông nghiệp, tưới cây, làm nguội/mát trong công nghiệp, dội rửa tollet, rửa xe cộ,

phòng cháy chữa cháy và bổ cập nguồn nước ngầm. Khí biogas từ bể xử lý kị khí có

thể dùng để thực hiện cho việc cung cấp năng lượng đốt hoặc sản xuất điện dùng

trong nhà máy.

- Về lâu dài, cần hướng tới việc thiết kế, xây dựng nhà máy XLNT tiên tiến,

thân thiện với môi trường và bền vững. Áp dụng các biện pháp như :

+ Chọn vị trí và bố trí mặt bằng các công trình hợp lý;

+ Các giải pháp thay thế Clo để khử trùng nước thải sau xử lý;

+ Đặc biệt quan tâm đến việc xử lý và thải bỏ bùn,

+ Tái sử dụng/tuần hoàn nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng

khác trong trạm XLNT;

Các công trình xử lý bậc 3 có thể sử dụng là công nghệ màng lọc, trao đổi

ion, than hoạt tính...Sau đó nước sẽ được khử trùng và đưa đi phục vụ các mục đích

khác nhau. Dây chuyền phục vụ mục đích tái sử dụng có thể là:



Nước thải



Bể kỵ khí



Bể thiếu khí



Bể hiếu khí + MBR



(Anaerobic

)



(Anoxic)



(UF,Aerobic)



Thu hồi khí

biogas



Màng RO



Tái sử dụng

cho mục

đích không

phải ăn

uống*



Tái sử dụng

cho mục

đích ăn

uống



Hình 2.20: Sơ đồ dây chuyền công nghệ có thể áp dụng cho mục đích tái sử dụng năng

lượng



(*Mục đích không ăn uống bao gồm tưới tiêu, tưới cây, làm nguội/mát trong công

nghiệp, dội rửa tollet, rửa xe cộ, phòng cháy chữa cháy và bổ cập nguồn nước

ngầm)

3.2.3. Nâng cao năng lực theo dõi, quan trắc chất lượng nước xử lý

Năng lực kiểm soát chất lượng nước thải cũng như kiểm soát hiệu quả xử lý

tại các nhà máy có thể thực hiện qua việc lắp đặt hệ thống quan trắc trực tuyến

(online monitoring system) nước thải. Qua đó có thể thu thập được rất nhiều thông

tin để đánh giá hoạt động của nhà máy/ trạm XLNT. Ví dụ ở khu công nghiệp Mỹ

Phước 3-4 đã được lắp đặt và vận hành hệ thống quan trắc nước thải. Có 5 thông số

được giám sát và lưu trữ liên tục: Lưu lượng, pH, DO, TSS và EC. Trạm quan trắc

đã vận hành khá tốt. Thông tin, số liệu thu được có thể phục vụ cho công việc theo

dõi, đánh giá, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Với chỉ 5

thông số quan trắc ở trên, đã có rất nhiều thông tin để đánh giá hoạt động của nhà

máy xử lý. Điều này cho thấy, việc lắp đặt trạm quan trắc trực tuyến để giám sát

nước thải sau xử lý của các nhà máy với đầy đủ các thống số giám sát được chỉ ra



trong Thông tư 08-2009/BTNMT là rất ý nghĩa và hết sức cần thiết (Nguyễn Việt

Anh, 2011).

3.3. Kết luận chương 3

Căn cứ vào kết quả đánh giá, đề tài đã đề xuất được một hệ thống các giải

pháp bao gồm giải pháp phi kỹ thuật và các giải pháp kỹ thuật như:

+ Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật quản lý và vận hành nhà máy

+ Đổi mới phương pháp quản lý nhà nước đối với các trạm xử lý nước thải

+ Điều chỉnh dây chuyền công nghệ để tăng cường việc tái sử dụng năng lượng

+ Nâng cao năng lực theo dõi, quan trắc chất lượng nước xử lý

Các đề xuất này không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả xử lý cho các nhà máy

XLNT tập trung hiện hữu mà còn giúp nâng cao hiệu quả đầu tư, góp phần đẩy

mạnh công tác bảo vệ môi trường và tái sử dụng nguồn năng lượng.



KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Sau khi nghiên cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của các trạm/nhà máy xử lý

nước thải ở thành phố Hà Nội và thành phố Bắc Giang cho thấy công nghệ sử dụng

ở các trạm này là những công nghệ rất hiện đại, cho hiệu suất xử lý cao. Qua nghiên

cứu cho thấy, nước thải trong hệ thống thoát nước chủ yếu phát sinh từ các hoạt

động sinh hoạt của người dân và chỉ chứa một lượng nhỏ nước thải công nghiệp. Do

đó, thành phần chất hữu cơ trong nước thải dễ dàng bị phân hủy bởi các vi sinh vật.

Các trạm xử lý nước thải đều đạt hiệu suất xử lý chất hữu cơ (theo chỉ tiêu BOD và

COD), tuy nhiên lượng chất hữu cơ thấp có thể không đủ cho quá trình xử lý Nitơ

và Phốt pho. Vào mùa mưa, khi nước thải được pha loãng với nước mưa, hiệu quả

của quá trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học giảm, đặc biệt là quá trình

xử lý Phốtpho. Trong thời kỳ này có trạm phải sử dụng nguồn chất hữu cơ ở bên

ngoài để nâng cao hiệu quả xử lý chất dinh dưỡng.

Ngoài ra, việc quản lý vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước

thải chưa được quan tâm. Công nhân vận hành và cán bộ kỹ thuật chưa được đào

tạo đầy đủ nên lúng túng khi vận hành, hệ quả là phải chi phí tốn kém cho việc sửa

chữa. Đây không chỉ đơn thuần là quản lý kỹ thuật, mà còn liên quan đến chi phí

kinh tế. Do vậy nhiều nhà máy/trạm xử lý nước thải, khi xây dựng với kinh phí đầu

tư lớn nhưng không hoạt động hiệu quả. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu

đánh giá một cách nghiêm túc.

2. Kiến nghị

Ở Việt Nam công nghệ xử lý nước cấp đã được nghiên cứu khá kỹ cả về lý

thuyết và thực tế, tuy nhiên đối với xử lý nước thải đô thị mới đang được nghiên

cứu lý thuyết dựa trên các công thức tính toán và vận hành ở nước ngoài mà chưa



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

×