Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )
ta, hệ thống thoát nước thường phân tán ra các lưu vực nhỏ và độc lập. Do vậy thoát
nước phân tán sẽ là hình thức phù hợp đối với đa số đô thị nước ta.
Ưu điểm: Xây dựng các trạm XLNT theo hình thức phân tán sẽ tận dụng
được các điều kiện tự nhiên cũng như khả năng tự làm sạch của sông, kênh, hồ để
chuyển hóa chất bẩn. Mặt khác việc xây dựng này cũng phù hợp với khả năng đầu
tư và phát triển của đô thị. Nước thải sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép được xả
vào các cống thoát nước chung hoặc các mương sông hồ trong khu vực.
Trong nhiều trường hợp mức độ XLNT của hệ thống thoát nước phân tán
yêu cầu không cao do tận dụng được khả năng làm sạch của các sông hồ. Tổng giá
thành đầu tư xây dựng, vận hành và bảo dưỡng cho các tuyến cống thoát nước thải
phân tán giảm xuống do tránh được các tuyến cống thoát nước dài, đường kính và
độ sâu lớn, các trạm bơm nước thải. Các công trình của trạm XLNT phân tán
thường được bố trí hợp khối, dễ vận hành và quản lý. Dễ quy hoạch và thực hiện
quy hoạch. Cho phép phân đợt xây dựng, đầu tư các hợp phần kỹ thuật từng bước
theo khả năng tài chính. Quy mô đầu tư cũng sát với yêu cầu hơn, tránh lãng phí.
Cho phép sử dụng các giải pháp công nghệ đơn giản, chi phí thấp, do phân tán được
quỹ đất yêu cầu. Các mô hình quản lý, cơ chế tài chính áp dụng cũng rất linh hoạt
tùy theo điều kiện cụ thể. Cho phép tái sử dụng tại chỗ nước thải sau xử lý (rửa,
tưới, bổ cập nước ngầm) và chất dinh dưỡng tách được (bón cây trồng)...
Nhược điểm: Dễ làm mất cảnh quan do việc xây dựng các trạm xử lý nước
thải trong đô thị. Nếu thiết kế thi công và vận hành trạm xử lý không đúng các yêu
cầu kỹ thuật, nước thải có thể gây mùi hôi thối, ảnh hưởng đến môi trường khu dân
cư và đô thị xung quanh. Mặt khác nếu hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng như
N, P trong nước thải sau xử lý còn cao, trong điều kiện quang hợp tốt, các sông hồ
đô thị tiếp nhận nước thải có thể bị phú dưỡng và dẫn đến nhiễm bẩn thứ cấp. Một
số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, trong các sông hồ nước thải đô thị hàm
lượng chất hữu cơ (tính theo BOD 5 ) bổ sung do nhiễm bẩn thứ cấp thường dao
R
R
động từ 1,4 - 4,5 mg/l. Các trạm XLNT phân tán có quy mô, mức độ và công nghệ
xử lý khác nhau. Việc kiếm soát, quản lý và vận hành chúng khá phức tạp. Tìm
kiếm đất đai cho việc xây dựng trạm XLNT trong nội thành thường rất khó khăn.
Ở Việt Nam hình thức xử lý nước thải phân tán cho nước thải đô thị chưa
phổ biến do đặc điểm dân cư tập trung đông đúc.
1.2.2. Xử lý nước thải tập trung
Khi thoát nước tập trung, nước thải từ các tuyến cống cấp 2 (tuyến cống lưu
vực) đưa về tuyến cống chính (tuyến cống cấp 1), sau đó bơm về trạm xử lý nước
thải tập trung. Như vậy nước thải sẽ được dẫn ra khỏi khu vực đô thị, xử lý đến mức
độ yêu cầu, sau đó xả ra nguồn nước mặt có khả năng tự làm sạch lớn.
Ưu điểm: Đảm bảo cho môi trường có độ an toàn cao, ít bị ô nhiễm, dễ kiểm
soát và quản lý.
Nhược điểm: Việc đầu tư thoát nước thải tập trung rất tốn kém do việc xây
dựng các tuyến cống chính lớn, dài và sâu, số lượng trạm bơm chuyển bậc nhiều…
Mặt khác khi đô thị phát triển không đồng bộ theo không gian và thời gian, việc xây
dựng trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung và tuyến cống chính sẽ không phù
hợp. Việc đầu tư kinh phí lớn ngay từ ban đầu cho các công trình này rất khó khăn.
/Nguồn: Trần Đức Hạ, 2006/
Ở Việt Nam, do việc bảo vệ môi trường đang là vấn đề ưu tiên, số lượng nhà
máy XLNT tập trung đang ngày càng tăng. Tính đến năm 2011, nước ta có khoảng
18 nhà máy XLNT đang hoạt động (Bảng 1.3) và 31 nhà máy XLNT đô thị đang
trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng và đang xây dựng. Các nhà máy XLNT hiện tại
chỉ xử lý được khoảng 284.000 m3/ngày trên tổng lượng nước thải đô thị 3.080.000
P
P
m3/ngày. Công nghệ XLNT của các đô thị chủ yếu là công nghệ truyền thống (hồ
P
P
sinh học, lọc sinh học,…) chủ yếu xử lý các chất ô nhiễm: chất rắn lơ lửng (SS),
chất hữu cơ (BOD),… và vi khuẩn gây bệnh (coliform). Một số nhà máy XLNT có
kết hợp xử lý nitơ trong nước thải bằng công nghệ bùn hoạt tính AO hoặc các công
trình SBR. Công trình mương oxi hóa cải tiến cũng đang được thiết kế và xây dựng
trong các dự án thoát nước và vệ sinh của một số đô thị.
Bảng 1.3: Các nhà máy xử lý nước thải tập trung được vận hành ở Việt Nam
TT
Nhà máy
1
Kim Liên
2
Trúc Bạch
3
Bắc Thăng Long
4
Thành
phố
Năm
vận
hành
Công suất,
m3/ngày
Vận
Thiết kế
hành
P
P
Loại
HTTN
Công nghệ
xử lý
2005
3,700
3,700
Chung
A2O (AS)
2005
2,500
2,500
Chung
A2O (AS)
2009
42,000
7,000
Chung
AO
Yên Sở
2012
200,000
120,000
Chung
SBR
5
Bình Hưng
2009
141,000
141,000
Chung
6
Bình Hưng Hòa
2008
30,000
30,000
Chung
CAS
Hồ ổn định
(AP,FP,MP)
2007
10,000
10,000
Riêng
OD
2009
15,000
15,000
Riêng
A2O (AS)
2006
15,900
15,900
Chung
2006
36,418
36,418
Chung
2006
36,430
36, 430
Chung
2006
11,629
11,629
Chung
2007
3,500
3,500
Chung
Hồ kị khí có
nắp đậy
Hồ kị khí có
nắp đậy
Hồ kị khí có
nắp đậy
Hồ kị khí có
nắp đậy
SBR
2009
7,000
7,500
Chung
SBR
7
8
Canh Doi (Phú
Mỹ Hưng)
Nam Viên (Phú
Mỹ Hưng)
9
Hòa Cường
11
Phú Lộc
12
Ngũ Hành Sơn
13
Bãi Cháy
14
Hà Khánh
Thành
phố Hồ
Chí
Minh
Sơn Trà
10
Hà Nội
Đà
Nẵng
Quảng
Ninh
15
Đà Lạt
Đà Lạt
2006
7,400
6,000
Riêng
Bể lắng hai
vỏ + bể lọc
sinh học.+
hồ khử trùng
16
Buôn Ma Thuột
BMT
2006
8,125
5,700
Riêng
Hồ ổn định
(AP,FP,MP)
17
Bắc Giang
2010
10,000
8,000
Chung
OD
18
Phan Rang
Bắc
Giang
Ninh
Thuận
2011
Hồ ổn định
(AP,FP,MP)
/ Nguồn: NHTG. 2012 và Trần Đức Hạ, 2012/
5,000
5,000
Chung
Hình 1.1: Một số hình ảnh về các nhà máy XLNT ở Việt Nam (Nguyễn Việt Anh, 2013)
1.3. Giới thiệu một số công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đang được áp dụng
ở Việt Nam
1.3.1. Xử lý nước thải bằng bể tự hoại
Bể tự hoại là công trình xử lý nước thải bậc I (xử lý sơ bộ) đồng thời thực
hiện hai chức năng: lắng nước thải và lên men cặn lắng. Bể tự hoại có thể được chia
làm 2 hoặc 3 ngăn. Nước thải vào thời gian lưu lại trong bể từ 1 đến 3 ngày.
Trong bể tự hoại diễn ra quá trình lắng cặn và lên men, phân hủy sinh học kỵ
khí cặn lắng. Các chất hữu cơ có trong nước thải và bùn cặn đã lắng, chủ yếu là các
hydrocacbon, đạm, béo.v..v. được phân hủy bởi các vi khuẩn kỵ khí và các loài nấm