1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Bảng 1.2 : Các bệnh lây lan qua đường nước thải sinh hoạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )


ta, hệ thống thoát nước thường phân tán ra các lưu vực nhỏ và độc lập. Do vậy thoát

nước phân tán sẽ là hình thức phù hợp đối với đa số đô thị nước ta.

Ưu điểm: Xây dựng các trạm XLNT theo hình thức phân tán sẽ tận dụng

được các điều kiện tự nhiên cũng như khả năng tự làm sạch của sông, kênh, hồ để

chuyển hóa chất bẩn. Mặt khác việc xây dựng này cũng phù hợp với khả năng đầu

tư và phát triển của đô thị. Nước thải sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép được xả

vào các cống thoát nước chung hoặc các mương sông hồ trong khu vực.

Trong nhiều trường hợp mức độ XLNT của hệ thống thoát nước phân tán

yêu cầu không cao do tận dụng được khả năng làm sạch của các sông hồ. Tổng giá

thành đầu tư xây dựng, vận hành và bảo dưỡng cho các tuyến cống thoát nước thải

phân tán giảm xuống do tránh được các tuyến cống thoát nước dài, đường kính và

độ sâu lớn, các trạm bơm nước thải. Các công trình của trạm XLNT phân tán

thường được bố trí hợp khối, dễ vận hành và quản lý. Dễ quy hoạch và thực hiện

quy hoạch. Cho phép phân đợt xây dựng, đầu tư các hợp phần kỹ thuật từng bước

theo khả năng tài chính. Quy mô đầu tư cũng sát với yêu cầu hơn, tránh lãng phí.

Cho phép sử dụng các giải pháp công nghệ đơn giản, chi phí thấp, do phân tán được

quỹ đất yêu cầu. Các mô hình quản lý, cơ chế tài chính áp dụng cũng rất linh hoạt

tùy theo điều kiện cụ thể. Cho phép tái sử dụng tại chỗ nước thải sau xử lý (rửa,

tưới, bổ cập nước ngầm) và chất dinh dưỡng tách được (bón cây trồng)...

Nhược điểm: Dễ làm mất cảnh quan do việc xây dựng các trạm xử lý nước

thải trong đô thị. Nếu thiết kế thi công và vận hành trạm xử lý không đúng các yêu

cầu kỹ thuật, nước thải có thể gây mùi hôi thối, ảnh hưởng đến môi trường khu dân

cư và đô thị xung quanh. Mặt khác nếu hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng như

N, P trong nước thải sau xử lý còn cao, trong điều kiện quang hợp tốt, các sông hồ

đô thị tiếp nhận nước thải có thể bị phú dưỡng và dẫn đến nhiễm bẩn thứ cấp. Một

số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, trong các sông hồ nước thải đô thị hàm

lượng chất hữu cơ (tính theo BOD 5 ) bổ sung do nhiễm bẩn thứ cấp thường dao

R



R



động từ 1,4 - 4,5 mg/l. Các trạm XLNT phân tán có quy mô, mức độ và công nghệ



xử lý khác nhau. Việc kiếm soát, quản lý và vận hành chúng khá phức tạp. Tìm

kiếm đất đai cho việc xây dựng trạm XLNT trong nội thành thường rất khó khăn.

Ở Việt Nam hình thức xử lý nước thải phân tán cho nước thải đô thị chưa

phổ biến do đặc điểm dân cư tập trung đông đúc.

1.2.2. Xử lý nước thải tập trung

Khi thoát nước tập trung, nước thải từ các tuyến cống cấp 2 (tuyến cống lưu

vực) đưa về tuyến cống chính (tuyến cống cấp 1), sau đó bơm về trạm xử lý nước

thải tập trung. Như vậy nước thải sẽ được dẫn ra khỏi khu vực đô thị, xử lý đến mức

độ yêu cầu, sau đó xả ra nguồn nước mặt có khả năng tự làm sạch lớn.

Ưu điểm: Đảm bảo cho môi trường có độ an toàn cao, ít bị ô nhiễm, dễ kiểm

soát và quản lý.

Nhược điểm: Việc đầu tư thoát nước thải tập trung rất tốn kém do việc xây

dựng các tuyến cống chính lớn, dài và sâu, số lượng trạm bơm chuyển bậc nhiều…

Mặt khác khi đô thị phát triển không đồng bộ theo không gian và thời gian, việc xây

dựng trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung và tuyến cống chính sẽ không phù

hợp. Việc đầu tư kinh phí lớn ngay từ ban đầu cho các công trình này rất khó khăn.

/Nguồn: Trần Đức Hạ, 2006/



Ở Việt Nam, do việc bảo vệ môi trường đang là vấn đề ưu tiên, số lượng nhà

máy XLNT tập trung đang ngày càng tăng. Tính đến năm 2011, nước ta có khoảng

18 nhà máy XLNT đang hoạt động (Bảng 1.3) và 31 nhà máy XLNT đô thị đang

trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng và đang xây dựng. Các nhà máy XLNT hiện tại

chỉ xử lý được khoảng 284.000 m3/ngày trên tổng lượng nước thải đô thị 3.080.000

P



P



m3/ngày. Công nghệ XLNT của các đô thị chủ yếu là công nghệ truyền thống (hồ

P



P



sinh học, lọc sinh học,…) chủ yếu xử lý các chất ô nhiễm: chất rắn lơ lửng (SS),

chất hữu cơ (BOD),… và vi khuẩn gây bệnh (coliform). Một số nhà máy XLNT có

kết hợp xử lý nitơ trong nước thải bằng công nghệ bùn hoạt tính AO hoặc các công

trình SBR. Công trình mương oxi hóa cải tiến cũng đang được thiết kế và xây dựng

trong các dự án thoát nước và vệ sinh của một số đô thị.



Bảng 1.3: Các nhà máy xử lý nước thải tập trung được vận hành ở Việt Nam



TT



Nhà máy



1



Kim Liên



2



Trúc Bạch



3



Bắc Thăng Long



4



Thành

phố



Năm

vận

hành



Công suất,

m3/ngày

Vận

Thiết kế

hành

P



P



Loại

HTTN



Công nghệ

xử lý



2005



3,700



3,700



Chung



A2O (AS)



2005



2,500



2,500



Chung



A2O (AS)



2009



42,000



7,000



Chung



AO



Yên Sở



2012



200,000



120,000



Chung



SBR



5



Bình Hưng



2009



141,000



141,000



Chung



6



Bình Hưng Hòa



2008



30,000



30,000



Chung



CAS

Hồ ổn định

(AP,FP,MP)



2007



10,000



10,000



Riêng



OD



2009



15,000



15,000



Riêng



A2O (AS)



2006



15,900



15,900



Chung



2006



36,418



36,418



Chung



2006



36,430



36, 430



Chung



2006



11,629



11,629



Chung



2007



3,500



3,500



Chung



Hồ kị khí có

nắp đậy

Hồ kị khí có

nắp đậy

Hồ kị khí có

nắp đậy

Hồ kị khí có

nắp đậy

SBR



2009



7,000



7,500



Chung



SBR



7

8



Canh Doi (Phú

Mỹ Hưng)

Nam Viên (Phú

Mỹ Hưng)



9



Hòa Cường



11



Phú Lộc



12



Ngũ Hành Sơn



13



Bãi Cháy



14



Hà Khánh



Thành

phố Hồ

Chí

Minh



Sơn Trà



10



Hà Nội



Đà

Nẵng



Quảng

Ninh



15



Đà Lạt



Đà Lạt



2006



7,400



6,000



Riêng



Bể lắng hai

vỏ + bể lọc

sinh học.+

hồ khử trùng



16



Buôn Ma Thuột



BMT



2006



8,125



5,700



Riêng



Hồ ổn định

(AP,FP,MP)



17



Bắc Giang



2010



10,000



8,000



Chung



OD



18



Phan Rang



Bắc

Giang

Ninh

Thuận



2011



Hồ ổn định

(AP,FP,MP)

/ Nguồn: NHTG. 2012 và Trần Đức Hạ, 2012/

5,000



5,000



Chung



Hình 1.1: Một số hình ảnh về các nhà máy XLNT ở Việt Nam (Nguyễn Việt Anh, 2013)



1.3. Giới thiệu một số công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đang được áp dụng

ở Việt Nam

1.3.1. Xử lý nước thải bằng bể tự hoại

Bể tự hoại là công trình xử lý nước thải bậc I (xử lý sơ bộ) đồng thời thực

hiện hai chức năng: lắng nước thải và lên men cặn lắng. Bể tự hoại có thể được chia

làm 2 hoặc 3 ngăn. Nước thải vào thời gian lưu lại trong bể từ 1 đến 3 ngày.

Trong bể tự hoại diễn ra quá trình lắng cặn và lên men, phân hủy sinh học kỵ

khí cặn lắng. Các chất hữu cơ có trong nước thải và bùn cặn đã lắng, chủ yếu là các

hydrocacbon, đạm, béo.v..v. được phân hủy bởi các vi khuẩn kỵ khí và các loài nấm



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

×