1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Kết quả đánh giá cho thấy cả 03 nhà máy đều thỏa mãn điều kiện bắt buộc để áp dụng là chỉ tiêu về “mức độ tuân thủ quy chuẩn Việt Nam” về xả thải vào nguồn tiếp nhận, thuộc tiêu chí kỹ thuật đều đạt số điểm trên 10.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 106 trang )


có khả năng xử lý COD, BOD, TSS khá tốt nhưng hiệu quả xử lý N lại thấp trong

khi đặc trưng của nước thải sinh hoạt đô thị là hàm lượng các chất hữu cơ thấp do

quá trình phân hủy tại các bể phốt hay bị pha loãng một phần bởi nước mưa. Hơn

nữa, phương pháp này có chi phí đầu tư, chi phí vận hành khá cao nên việc áp dụng

mô hình này để xử lý nước thải sinh hoạt cho các đô thị cần được cân nhắc kỹ.

Công nghệ OD có khả năng loại bỏ hàm lượng N, P đáng kể tuy nhiên lại

chiếm nhiều diện tích và vì mương hở nên rất dễ gây mùi nên việc áp dụng mô hình

này tại các đô thị phát triển sẽ gây ảnh hưởng tới môi trường xung quanh.

Công nghệ SBR có tính năng nổi bật là khả năng loại bỏ N rất tốt. Ngoài ra,

hệ thống có thể xử lý nhiều loại nước thải khác nhau với nhiều thành phần và tải

trọng, có thể ứng phó tốt với sự dao động tải của dòng vào. Xử lý được với nhiều

công suất khác nhau, có khả năng mở rộng, nâng cấp và là hệ thống xử lý gọn nên

tương đối phù hợp với việc XLNT tại các đô thị lớn, nơi có quỹ đất dành cho việc

XLNT hạn hẹp, giá thành cao.

2.5. Kết luận chương 2

- Ba nhà máy xử lý nước thải được khảo sát đều sử dụng công nghệ xử lý nước thải

dùng bùn hoạt tính như công nghệ A2O (kị khí, thiếu khí và hiếu khí) ở trạm XLNT

Kim Liên, công nghệ xử lý gián đoạn theo mẻ SBR ở nhà máy XLNT Yên Sở và

kênh ôxi hoá ở nhà máy XLNT Bắc Giang. Theo tiêu chí thiết kế, mỗi công nghệ

này đều có thể xử lý nước thải đầu vào có nồng độ BOD cao hơn thông thường mà

vẫn đạt chất lượng nước sau xử lý cao.

- Nước thải đầu vào ở các nhà máy thường có chất lượng không ổn định và "sạch"

hơn so với thiết kế ban đầu, một số thông số nằm trong tiêu chuẩn cho phép xả ra

nguồn mà không cần xử lý. Có nhiều nguyên nhân như do khi thiết kế không lấy

mẫu phù hợp hoặc không tính đến trường hợp bị pha loãng với nước mưa và là nước

thải từ hệ thống cống chung (đã xử lý một phần ở bể tự hoại). Việc này dẫn đến khó



xử lý hoàn toàn, nếu có phải tăng thêm chi phí trong vận hành để đạt chất lượng

nước đầu ra như trường hợp nhà máy XLNT Yên Sở.

- Phương pháp đánh giá tính ổn định và hợp lý của công nghệ xử lý nước thải theo

các tiêu chí và chỉ tiêu tự thiết lập rất khả thi. Việc lựa chọn nhóm chuyên gia để

đánh giá lựa chọn công nghệ là vô cùng quan trọng.



CHƯƠNG 3

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC

NHÀ MÁY XLNT SINH HOẠT

3.1. Giải pháp phi kỹ thuật

Qua khảo sát và phân tích những nhà máy XLNT Kim Liên, Yên Sở và Bắc

Giang cũng như tham khảo tài liệu của những nhà máy XLNT nói chung ở Việt

Nam cho thấy việc quản lý, vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước thải

với mọi cấp độ và quy mô đang còn nhiều hạn chế. Đây không chỉ đơn thuần là

quản lý kỹ thuật, mà còn liên quan đến chi phí kinh tế. Việc xem nhẹ công tác vận

hành hệ thống khiến nhà nước mất nhiều tiền bạc và thời gian hơn cả xây mới hệ

thống. Có thể nói những tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý, vận hành nhà

máy XLNT do nhiều nguyên nhân mà những nguyên nhân chính có thể thấy như

sau:

 Do thiếu cán bộ kỹ thuật cho chuyên môn về quản lý, vận hành

Người vận hành hệ thống xử lý nước thải là người có tiếng nói quyết định

chất lượng nước thải, giá cả vận hành sau cùng. Theo dõi bông bùn vi sinh phát

triển thế nào, màu bông bùn nói lên vi sinh khỏe hay yếu, hóa chất phèn sắt, phèn

nhôm, axit, xút, polime châm dư hay thiếu, kỹ năng xử lý sự cố….quyết định tuổi

thọ hệ thống, quyết định mức giá thành vận hành hệ thống. Do vậy, công tác vận

hành hệ thống xử lý nước thải rất phức tạp, nên cần có kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật

hoặc công nghệ môi trường đảm trách.

 Do nhận thức chưa đầy đủ của cán bộ lãnh đạo, chính quyền các cấp và

cộng đồng



Năng lực và các nguồn lực cần thiết của hệ thống các cơ quan quản lý cũng

như lực lượng giám sát thi hành luật pháp về BVMT chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu

cầu công tác thực tế. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước

thải nói chung cũng như nước thải sinh hoạt đô thị nói riêng còn chồng chéo và có

những khoảng trống.

Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức, dẫn đến

buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát và cưỡng chế

thực thi pháp luật. Do vậy, việc xả nước thải chưa xử lý triệt để đảm bảo tiêu chuẩn

xả thải đôi lúc vẫn còn xảy ra. Công tác tuyên truyền, giáo dục về BVMT trong xã

hội còn hạn chế, chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá

nhân, cộng đồng trong việc tham gia, hỗ trợ hệ thống quản lý nhà nước giám sát thi

hành pháp luật về BVMT.





GIẢI PHÁP:

Do đó nghiên cứu này xin đề xuất những đổi mới trong quản lý và nâng cao



hiệu quả hoạt động của các nhà máy XLNT như sau:

3.1.1. Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật quản lý và vận hành nhà máy

Tại các trạm XLNT nhu cầu về người làm đúng chuyên môn, nhu cầu tại chỗ

về đào tạo, tập huấn, tăng cường năng lực cho cán bộ công nhân vận hành còn rất

lớn. Do đó, cần chú trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp

nhận và vận hành trạm XLNT...

Công nhân vận hành các công trình XLNT phải được hướng dẫn về quy trình

vận hành các công trình, các nguyên tắc về an toàn lao động và phòng cháy, chữa

cháy, an toàn điện, an toàn hóa chất, các biện pháp phòng ngừa và khắc phục sự cố...

Các cán bộ kỹ thuật phải thực hiện được các nhiệm vụ chuyên môn cơ bản như:

- Bảo đảm chế độ làm việc bình thường của từng công trình và của toàn trạm;



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

×