Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.77 KB, 56 trang )
2. Đặc điểm thuế Thu nhập doanh nghiệp
- Thuế TNDN là một loại thuế trực thu. Tính chất trực thu của loại thuế này
được biểu hiện ở sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế.
- Thuế TNDN đánh vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, bởi vậy mức
động viên vào NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
3. Vai trò của thuế TNDN
3.1 Thuế TNDN là khoản thu quan trọng của NSNN
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong những loại thuế trực thu. Nó và
thuế thu nhập cá nhân chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu Ngân sách Nhà
nước. Ở các nước phát triển hai loại thuế chủ yếu này đã làm cho thuế trực thu
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước. Ví dụ như Mỹ: thuế trực
thu chiếm 74,8%, Nhật Bản là 74%. Hầu hết các nước có thu nhập quốc dân
bình quân đầu người thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
số thuế ngân sách; ví dụ như: Philipin chiếm 60%; Thái Lan chiếm 66%; Ấn Độ
63%; Kênia: 61%; Gana: 65%...
Ở Việt nam, tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp trong tổng số thu Ngân
sách Nhà nước (trừ dầu thô) năm 2004 là 24%; năm 2005 là 24, 5%, năm 2006
là 24,1%.
Tuy nhiên, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt
động kinh tế ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao sẽ
tạo ra nguồn thu về thuế TNDN ngày càng lớn cho NSNN.
3.2 Thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết
vĩ mô nền kinh tế
Nói cách khác, thuế phải góp phần khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát
triển theo định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Nhà nước ban hành một hệ thống pháp luật về thuế thu nhập doanh
nghiệp áp dụng chung cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển. Như vậy, với các doanh nghiệp cùng sản xuất một mặt hàng như nhau,
cùng bán giá bán trên thị trường như nhau, nếu cơ sở sản xuất nào càng hạ thấp
2
được giá thảnh sản phẩm, càng thu được nhiều lợi nhuận thì càng phát triển
mạnh, và ngược lại thì dễ dẫn tới bị phá sản.
- Thông qua việc xác định phạm vi thu thuế và không thu thuế, Nhà nước
thể hiện sự ưu đãi của mình đối với một số đối tượng trong xã hội không phải
nộp thuế hoặc thể hiện sự khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển
của một lĩnh vực ở một vùng nào đó.
- Ngoài việc quy định thuế suất chung cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
Nhà nước cũng đưa ra thuế suất ưu đãi để áp dụng đối với từng ngành nghề, mặt
hàng, lĩnh vực thể hiện mức độ khuyến khích hay không khuyến khích của Nhà
nước đối với những ngành nghề, mặt hàng, lĩnh vực đó trong nền kinh tế.
- Không những chỉ khuyến khích đầu tư bằng việc định ra một thuế suất
hợp lý, mà thuế thu nhập doanh nghiệp còn được sử dụng là một biện pháp
khuyến khích bỏ vốn đầu tư vào các ngành nghề, mặt hàng, các vùng mà Nhà
nước cần tập trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, khai thác tiềm năng về vốn
trong dân cư và của các nhà đầu tư nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp khắc
phục khó khăn, rủi ro để phát triển sản xuất bằng việc sử dụng biện pháp miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức độ khác nhau.
3.3 Thuế TNDN là một công cụ của Nhà nước thực hiện chính sách công
bằng xã hội
Một trong những mục tiêu của thuế thu nhập doanh nghiệp là điều tiết thu
nhập, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập xã hội. Thuế thu nhập
doanh nghiệp được áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, không những đảm bảo bình đẳng công bằng về chiều ngang mà
còn cả công bằng về chiều dọc. Về chiều ngang, bất kể một doanh nghiệp nào
kinh doanh bất cứ hình thức nào nếu có thu nhập chịu thuế thì phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp. Về chiều dọc, cùng một ngành nghề không phân biệt quy
mô kinh doanh nếu có thu nhập chịu thuế thì đều phải nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp. Với mức thuế suất thống nhất, doanh nghiệp nào có thu nhập cao thì
phải nộp thuế nhiều hơn (theo số tuyệt đối) doanh nghiệp có thu nhập thấp.
3
II. Một số nội dung cơ bản của thuế TNDN:
1. Đối tượng nộp thuế:
Về nguyên lý chung thì tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế đều thuộc đối tượng nộp thuế TNDN.
Tuy nhiên, để thu thuế thu nhập, các nước chú trọng đến việc phân loại
công ty hoạt động dưới hình thức nào. Các nước do các hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh nên đã quy định cụ thể một hoạt động kinh doanh trước khi tiến hành phải
thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo luật kinh doanh tương ứng. Trên cơ sở
các quy định về pháp lý, tên gọi, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu, các sáng lập
viên… mà đã định ra 2 hình thức thu thuế thu nhập thích hợp. Nhìn chung các
nước đều quy định thu nhập của một pháp nhân kinh doanh phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp. Thu nhập của thể nhân kinh doanh hoặc cá nhân không kinh
doanh phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
2. Cơ sở tính thuế hay căn cứ tính thuế:
Bao gồm thu nhập chịu thuế và thuế suất.
2.1 Thu nhập chịu thuế:
2.1.1 Xác định thu nhập chịu thuế:
- Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập. Nó
được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi đã trừ một số
khoản thu nhập và chi phí để tạo ra thu nhập đó.
- Muốn xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp cần xem xét các
vấn đề sau:
+ Nguồn gốc của thu nhập.
+ Địa điểm phát sinh thu nhập và thời hạn cư trú hoặc không cư trú của chủ
sở hữu thu nhập.
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống cơ bản để xác định nghĩa vụ nộp thuế
thu nhập của một doanh nghiệp hay cá nhân tại một nước nào đó theo luật pháp
của nước đó. Hai hệ thống này là hệ thống xác định nghĩa vụ thuế của một đối
tượng dựa trên nơi thường trú và hệ thống dựa trên nguồn gốc thu nhập.
Đánh thuế trên cơ sở thường trú tức là phải xác định rõ thế nào là cơ sở
thường trú và thuế thu nhập sẽ được điều chỉnh trên toàn bộ thu nhập của doanh
nghiệp ở các quốc gia khác nhau không phân biệt lĩnh vực, thời gian phát sinh.
4
Nói cách khác cơ sở xác định khả năng chịu thuế của một công ty là dựa trên
khái niệm một công ty cư trú hay không cư trú ở một nước. Một công ty cư trú ở
một nước có nghĩa vụ kê khai toàn bộ thu nhập chịu thuế phát sinh ở trong nước
và ngoài nước. Còn công ty không cư trú, nhưng có cơ sở thường trú ở một nước
chỉ có nghĩa vụ kê khai thu nhập phát sinh tại nước đó.
Phương pháp đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập (Đánh thuế trên cơ sở
xuất xứ) tức là chỉ có những thu nhập phát sinh trong lãnh thổ của cơ sơ sản xuất
kinh doanh đó bị đánh thuế.
Như vậy, việc đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập sẽ có cơ sở tính thuế eo
hẹp hơn cách đánh thuế dựa trên tiêu chuẩn thường trú khi trên lãnh thổ 1 quốc
gia nào đó có nhiều công ty hoạt động kinh doanh của nước ngoài
+ Tính thường xuyên hay không thường xuyên của việc phát sinh thu nhập.
- Khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN cần phải quán triệt các nguyên tắc
cơ bản sau đây:
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập bằng tiền, tức là chỉ những thu nhập được
tính ra bằng tiền mới đưa vào thu nhập chịu thuế, theo đó thì những thu nhập
dưới dạng hiện vật phải được tính thành tiền và những thu nhập nhận được từ
các lợi ích công cộng không được tính vào thu nhập chịu thuế.
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập ròng, tức là thu nhập nhận được sau khi
đã trừ đi các chi phí hợp lý và cần thiết để tạo ra thu nhập đó;
+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập thực tế. Tức là chỉ những thu nhập mà
doanh nghiệp thực sự nhận được trong kỳ tính thuế mới được tính còn những thu
nhập đang ở dạng tiềm ẩn thì không được tính vào thu nhập chịu thuế. Ví dụ
những khoản trừ chiết khấu giảm giá cho khách hàng, trị giá hàng bị trả lại sẽ
được khấu trừ không được tính vào thu nhập chịu thuế, ngược lại những khoản
trợ giá, phụ thu mà doanh nghiệp được hưởng lại được tính vào thu nhập chịu
thuế.
2.1.2 Xác định thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp:
Xác định đúng đắn thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề vô
cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi luật thuế vì việc xác định
đúng thời gian tính thuế sẽ đảm bảo giá trị đồng tiền nộp thuế trước tình trạng
5
lạm phát, tránh sự lợi dụng chiếm dụng tiền thuế và thực hiện chi tiêu theo kế
hoạch của Nhà nước.
2.1.3 Tuỳ theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung,
phương pháp xác định các khoản chi phí có sự khác nhau. Các khoản chi phí
được khấu trừ về nguyên tắc phải có các đặc trưng sau:
+ Chi phí phải liên quan tới doanh nghiệp hay có thể nói rõ hơn đó là các
chi phí phải được chi ra cho các mục đích tạo ra thu nhập chịu thuế.
+ Chi phí phải thật được chi ra.
+ Mức trả cho chi phí phải hợp lý.
+ Chi phí phải có tính “thu nhập” hơn là tính vốn. Chi phí mang tính chất
vốn là những khoản chi liên quan đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chi phí
mang tính chất thu nhập là những khoản chi phí liên quan trực tiếp đến tạo ra thu
nhập.
Mặc dù có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí được
khấu trừ nhưng nhiều khoản chi phí không nằm trong phạm vi các nguyên tắc
trên. Các chi phí đó là:
a. Vốn thu hoạch lại: là số tiền thanh lý tài sản, nhượng bán tài sản. Có 3
quan điểm về việc đánh thuế đối với vốn thu hoạch lại:
- Quan điểm 1: Đánh 1 phần vào 1 số loại vốn thu hồi được, chủ yếu đánh
vào đất, cổ phần.
- Quan điểm 2: Không đánh thuế thu nhập vì nói không mang tính chất thu
nhập mà mang tính chất vốn.
- Quan điểm 3: Đánh thuế thu nhập trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại vì
người ta coi đó là khoản thu nhập.
Để đánh thuế chính xác, ở các nước có hệ thống thuế hiện đại, người ta cho
laọi trừ các nhân tố ảnh hưởng (ví dụ như lạm phát). Ở các nước hệ thống thuế
chưa phát triển, đánh thuế trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại.
b. Lợi tức cổ phần: là một khoản thu nhập của doanh nghiệp do doanh
nghiệp đóng góp cổ phần vào công ty khác. Có 2 quan điểm:
- Quan điểm 1: Không nên đánh thuế vì trước khi nhận được lợi tức cỏ
phần, khoản này đã bị đánh thuế ở doanh nghiệp mà mình góp cổ phần.
6
- Quan điểm 2: Nếu coi đây là khoản thu nhập thì vấn đánh thuế.
Người ta đưa ra cách xử lý:
- Khấu trừ tiền thuế đã nộp ở khâu trước khi nhận được thu nhập.
- Đánh vào một phần thu nhập từ lợi tức cổ phần.
c. Lãi tiền gửi: Đây là khoản thu nhập của doanh nghiệp nên nên đánh thuế
thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu khuyến khích hoạt động cho vay vốn thì
không đánh vào lãi tiền gửi.
d. Thu nhập từ nước ngoài: nếu căn cứ vào tiêu thức thường trú thì nên
đánh. Tuy nhiên đây là khoản thu nhập từ nước ngoài đã bị đánh thuế thu nhập
doanh nghiệp của nước ngoài nên nếu đánh thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ dẫn
đến đánh trùng thuế, hạn chế đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh.
e. Khấu hao tài sản cố định: là một yếu tố của hci phí nhưng được phân bổ
như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc, tỷ lệ
khấu hao tài sản cố định nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế phải tương ứng với
vòng đời kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều quốc gia, khấu hao
đưa vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với vòng đời hữu dụng
của tài sản.
g. Các khoản thuế được khấu trừ:
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì không được coi là khoản chi phí
khấu trừ.
Đối với thuế đánh trên hàng hoá (thuế gián thu) thì được coi là chi phí và
được phép khấu trừ vì thực chất đây là một khoản chi phí mà Công ty phải trả
khi mua hàng hoá và nó được coi như là một chi phí tạo ra lợi nhuận.
h. Chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị, tiếp tân, tiếp khách…: Việc xác định
định mức bao nhiều là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ.
7
2.2 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế suất là mức động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối tượng
tính thuế. Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết
của nhà nước đối với một đối tượng tính thuế; thể hiện quan điểm của Nhà nước
về yêu cầu động viên nhằm khuyến khích hay không khuyến khích sự phát triển
của một ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Thuế suất được xác định
bằng đại lượng tuyệt đối hay bằng tỷ suất.
Cơ cấu thuế suất thuế thu nhập công ty được thiết kế khác nhau tuỳ thuộc
điều kiện và chính sách kinh tế của từng nước. Một chính sách thuế thu nhập
thông minh không phải là đặt ra mức động viên thuế cao (thuế suất cao), điều
quan trọng là thuế suất cần quy định ở mức vừa phải trên cơ sở xem xét, cân
nhắc đến cả lợi ích: Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời cần phải mở rộng
diện thu thuế, đa dạng hoá đối tượng thu và không bỏ sót nguồn thu, gánh nặng
thuế được san sẻ cho nhiều người cùng chịu.
3. Ưu đãi miễn, giảm thuế
3.1 Khái niệm:
Ưu đãi về thuế là việc một quốc gia, một tổ chức Quốc tế dành những điều
kiện, những quyền lợi đặc biệt về thuế cho một tổ chức quốc tế, một quốc gia,
một doanh nghiệp hay một cá nhân nào đó hơn so với những quốc gia khác, tổ
chức khác hay đối tượng khác.
Nói cách khác, ưu đãi thuế là hình thức cho người nộp thuế được hưởng
những điều kiện thuận lợi khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
3.2 Đặc điểm của các ưu đãi thuế
Ưu đãi thuế là một trong những bộ phận của chính sách ưu đãi nên nó
mang đầy đủ đặc điểm của chính sách ưu đãi. Ngoài ra nó còn có một số đặc
điểm chủ yếu sau:
- Chỉ có tổ chức quốc tế và các quốc gia mới có quyền đặt ra ưu đãi thuế
vì tổ chức quốc tế và quốc gia có quyền quản lý. Ưu đãi chỉ tồn tại khi nó thực
hiện được. Muốn vậy, đối tượng ban hành ra nó phải có quyền lực nhất định. Tổ
chức quốc tế có quyền lực quản lý trong phạm vi các quốc gia theo các cam kết
mà các quốc gia này đã ký kết; Nhà nước có quyền quản lý quốc gia trên mọi
8
phương diện hay nói cách khác có Nhà nước thì mới có thuế, mới có ưu đãi
thuế. Vì vậy, chỉ có tổ chức quốc tế và Nhà nước ở các quốc gia có quyền đặt ra
ưu đãi thuế.
- Ưu đãi thuế nhằm vào mục đích phát triển. Vì vậy, các tổ chức quốc tế,
các khu vực, Nhà nước ở các quốc gia đều đưa ra hệ thống ưu đãi thuế khác
nhau tuỳ hoàn cảnh của mỗi nước, tuỳ mục tiêu phát triển nền kinh tế trong từng
thời kỳ.
- Giới hạn về chủ thể và thời hạn ưu đãi thuế: Cũng như chính sách ưu
đãi, chính sách ưu đãi thuế nhằm mục đích nhất định thì phải có chủ thể nhất
định. Thời gian ưu đãi thuế cũng phải được tính đến để cho phù hợp với sự phát
triển của doanh nghiệp. Nếu thời gian quá ngắn thì các nhà đầu tư chưa có khả
năng khắc phục khó khăn nhưng nếu thời gian quá dài thì có khi không những
không có tác dụng lắm đối với kích thích đầu tư mà còn tạo ra nhiều mặt tiêu
cực vì chính sách ưu đãi nói chung và chính sách ưu đãi thuế nói riêng bên cạnh
những mặt tích cực thì còn có rất nhiều những hạn chế như: tạo ra sự mất công
bằng, gây méo mó nền kinh tế...
- Chính sách ưu đãi thuế làm giảm cơ sở thuế bao gồm có thể là giảm thuế
suất hoặc giảm số thu.
- Mặc dù việc ban hành các ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư rất phổ
biến tại các nước trên thế giới, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về tác dụng
của các biện pháp ưu đãi thuế này đối với việc thu hút đầu tư. Đối với các nhà
đầu tư, việc quyết định đầu tư vào một nước thường phụ thuộc vào toàn bộ các
yếu tố của nước sở tại, trong đó ưu đãi thuế chỉ là một trong lý do để cân nhắc
và không phải là yếu tố quan trọng nhất. Nguồn tài nguyên, sự ổn định về chính
trị và kinh tế, minh bạch trong hệ thống pháp luật, việc có đầy đủ các hệ thống
hỗ trợ (ví dụ: các hệ thống ngân hàng, vận tải, viễn thông và các tiện ích hạ
tầng), khả năng dễ chuyển lợi tức ra nước ngoài và lực lượng lao động chuyên
nghiệp và giá rẻ thường là những yếu tố quyết định hơn vấn đề về thuế khi xem
xét các vị trí đầu tư thích hợp. Nếu các yếu tố này là thuận lợi và hệ thống thuế
9
quốc gia phù hợp với các chuẩn mực quốc tế thì ưu đãi thuế sẽ không còn vai trò
quyết định ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
Một đặc điểm nữa của ưu đãi thuế là rất khó có thể định lượng phần đầu
tư tăng lên do áp dụng các ưu đãi thuế so với phần số thu đã mất, do đó các đánh
giá về tác dụng của từng loại ưu đãi thường mang tính chất định tính, không
mang tính chất định lượng.
3.3 Cơ chế áp dụng ưu đãi
- Cơ chế tự động: cơ chế này cho phép doanh nghiệp/ dự án đầu tư nhận
được các ưu đãi một cách tự động ngay khi đáp ứng đủ mục tiêu cụ thể theo tiêu
thức như số tiền đầu tư tối thiểu của dự án vào các khu vực nhất định của nền
kinh tế. Các tiêu thức này thường được quy định hoặc trong những luật có liên
quan hoặc trong các quy định thực hiện luật.
- Cơ chế xét duyệt: cơ chế này gắn liền với việc chấp thuận hay từ chối
đơn xin áp dụng ưu đãi trên cơ sở đánh giá mức thực tế đạt được so với các điều
kiện ưu đãi đã đưa ra ban đầu.
Đối với cả hai loại cơ chế lập ngưỡng đều có những hạn chế nhất định. Cơ
chế lập ngưỡng xét duyệt tốt hơn cơ chế tự động vì cơ chế xét duyệt có thể tạo
cho cơ quan cấp ưu đãi nhiều linh hoạt trong việc xác định ưu điểm của từng
đơn xin hưởng ưu đãi. Tuy nhiên, trên thực tế việc xét duyệt có thể thiếu minh
bạch và tạo điều kiện cho nạn tham nhũng.
3.4 Phạm vi ưu đãi:
Ưu đãi thuế có thể chia thành 2 cấp độ:
+ Ưu đãi trên phạm vi Quốc tế: Là việc một tổ chức Quốc tế, một quốc
gia nào đó dành những điều kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế cho một
hay một số quốc gia khác trong phạm vi một công ước Quốc tế, một hiệp định
song phương, đa phương… so với các quốc gia khác khi tham gia vào thương
mại Quốc tế.
10
+ Ưu đãi trên phạm vi quốc gia: Là việc một quốc gia dành những điều
kiện, những quyền lợi đặc biệt hơn về thuế cho một tổ chức, một doanh
nghiệp… nhằm khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một lĩnh vực, một
ngành nghề hay một mặt hàng nào đó… theo mục tiêu hoặc đường lối mà Chính
phủ đă đặt ra. Việc ưu đãi trên phạm vi quốc gia được Chính phủ các nước sử
dụng dưới hình thức luật, các văn bản dưới luật hay đơn giản chỉ là quy định của
một địa phương nào đó. Tuy nhiên, các quyết định mà Chính phủ các nước đưa
ra phải phù hợp với các nguyên tắc, các cam kết của các tổ chức Quốc tế mà
Chính phủ đã ký kết trong tiến trình tham gia vào thương mại Quốc tế.
3.5 Hình thức ưu đãi chủ yếu
Các nước có thể sử dụng nhiều hình thức ưu đãi thuế khác nhau với mức
độ ưu đãi khác nhau tuỳ theo mục tiêu cần thu hút đầu tư của mình, tuy nhiên
các dạng ưu đãi thuế cơ bản thường gồm:
3.5.1 Miễn giảm thuế có thời hạn
Ưu đãi thuế có các hình thức cụ thể, đó là: miễn, giảm tín dụng thuế đầu
tư, mức miễn trừ (mức tối thiểu không phải chịu thuế)..v..v. Chế độ ưu đãi về
thuế được thể hiện rõ nhất thông qua các quy định miễn giảm thuế. Miễn giảm
thuế là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước, song vì những lý
do kinh tế, xã hội mà Nhà nước quy định cho phép không phải nộp toàn bộ
(miễn thuế ) hay chỉ phải nộp một phần (giảm thuế) trong số thuế phải nộp.
Miễn giảm thuế có thời hạn là không đánh thuế hoặc giảm thuế thu nhập
đối với các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn trong một thời gian nhất định. Các thời
kỳ doanh nghiệp được miễn giảm thuế thường được gọi là các kỳ nghỉ về thuế.
Đây là hình thức ưu đãi đầu tư phổ biến tại các nước đang phát triển. Ở
những quốc gia khác nhau, chính sách miễn giảm thuế rất khác nhau cả về thời
hạn được miễn giảm và hình thức miễn giảm. Thời hạn miễn giảm ngắn có thể là
một năm, dài hơn có thể kéo dai tới 20 năm dưới hình thức cho miễn toàn bộ
thuế lợi tức ( thậm chí tất cả các loại thuế phải nộp) hoặc dưới hình thức giảm
mức thuế suất…
Thời điểm miễn giảm thuế có thể là: Ngày đăng ký thành lập công ty,
ngày bắt đầu sản xuất kinh doanh, ngày công ty bắt đầu có thu nhập, năm đầu
11
tiên công ty có lãi… Ở nhiều nước thời điểm miễn giảm ít nhất là một năm hay
lâu hơn trước khi một dự án đầu tư nước ngoài thực sự bắt đầu kinh doanh và
thường là khoảng 5 năm hay dài hơn trước khi công ty có lợi tức. Miễn giảm
thuế có mối liên quan chặt chẽ với các quy định về khấu hao và giảm lỗ. Trong
một số trường hợp, việc miễn giảm có thời hạn có thể không đem lại lợi ích cho
các nhà đầu tư.
Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy, miễn giảm thuế với thời hạn ngắn
có ít tác dụng trong việc thu hút đầu tư. Thời hạn miễn giảm dài hơn có tác dụng
và sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, song đối với nước nhận đầu tư nó
làm tăng chi phí hay giảm số thu thuế do giảm thuế. Hơn nữa, miễn giảm thuế
tạo ra nhiều khe hở cho việc luồn lách, trốn thuế và lạm dụng như tạo cơ hội cho
tránh thuế vì các doanh nghiệp bị đánh thuế có thể sử dụng quan hệ kinh tế với
doanh nghiệp được miễn thuế để chuyển lợi nhuận của mình sang cho doanh
nghiệp miễn thuế thông qua chuyển giá hay bị các nhà đầu tư lơi dụng thông qua
việc tái tạo đầu tư mới từ đầu tư cũ..
3.5.2 Thuế suất giảm: áp dụng mức thuế suất thấp hơn thuế suất chuẩn đối
với các dự án đầu tư đạt đủ điều kiện.
3.5.3 Trừ chi phí đầu tư hoặc khấu trừ thuế; trợ cấp đầu tư và khấu hao
nhanh
Qui định tỷ lệ phần trăm của chi phí đầu tư ban đầu (ví dụ: chi phí nhà
xưởng, thiết bị) sẽ được trừ ngay trong chi phí của thời kỳ hiện hành, ngoài mức
khấu hao thông thường (biện pháp trừ chi phí) hoặc qui định tỷ lệ phần trăm chi
phí đầu tư sẽ được trừ vào nghĩa vụ thuế thu nhập công ty (biện pháp khấu trừ
thuế). Mục tiêu của loại ưu đãi này là nhằm khuyến khích việc đầu tư đối với
các nhà xưởng và thiết bị trong những ngành cần tập trung.
- Khấu hao nhanh: Là hình thức chi phí mua tài sản được khấu hao với
tốc độ nhanh hơn so với mức khấu hao được cho phép theo lịch trình khấu hao
thông thường. Nói cách khác nó cho phép trừ chi phí đầu tư trong những năm
đầu tiên nhanh hơn so với năm sau.
12