Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.77 KB, 56 trang )
tiên công ty có lãi… Ở nhiều nước thời điểm miễn giảm ít nhất là một năm hay
lâu hơn trước khi một dự án đầu tư nước ngoài thực sự bắt đầu kinh doanh và
thường là khoảng 5 năm hay dài hơn trước khi công ty có lợi tức. Miễn giảm
thuế có mối liên quan chặt chẽ với các quy định về khấu hao và giảm lỗ. Trong
một số trường hợp, việc miễn giảm có thời hạn có thể không đem lại lợi ích cho
các nhà đầu tư.
Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy, miễn giảm thuế với thời hạn ngắn
có ít tác dụng trong việc thu hút đầu tư. Thời hạn miễn giảm dài hơn có tác dụng
và sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, song đối với nước nhận đầu tư nó
làm tăng chi phí hay giảm số thu thuế do giảm thuế. Hơn nữa, miễn giảm thuế
tạo ra nhiều khe hở cho việc luồn lách, trốn thuế và lạm dụng như tạo cơ hội cho
tránh thuế vì các doanh nghiệp bị đánh thuế có thể sử dụng quan hệ kinh tế với
doanh nghiệp được miễn thuế để chuyển lợi nhuận của mình sang cho doanh
nghiệp miễn thuế thông qua chuyển giá hay bị các nhà đầu tư lơi dụng thông qua
việc tái tạo đầu tư mới từ đầu tư cũ..
3.5.2 Thuế suất giảm: áp dụng mức thuế suất thấp hơn thuế suất chuẩn đối
với các dự án đầu tư đạt đủ điều kiện.
3.5.3 Trừ chi phí đầu tư hoặc khấu trừ thuế; trợ cấp đầu tư và khấu hao
nhanh
Qui định tỷ lệ phần trăm của chi phí đầu tư ban đầu (ví dụ: chi phí nhà
xưởng, thiết bị) sẽ được trừ ngay trong chi phí của thời kỳ hiện hành, ngoài mức
khấu hao thông thường (biện pháp trừ chi phí) hoặc qui định tỷ lệ phần trăm chi
phí đầu tư sẽ được trừ vào nghĩa vụ thuế thu nhập công ty (biện pháp khấu trừ
thuế). Mục tiêu của loại ưu đãi này là nhằm khuyến khích việc đầu tư đối với
các nhà xưởng và thiết bị trong những ngành cần tập trung.
- Khấu hao nhanh: Là hình thức chi phí mua tài sản được khấu hao với
tốc độ nhanh hơn so với mức khấu hao được cho phép theo lịch trình khấu hao
thông thường. Nói cách khác nó cho phép trừ chi phí đầu tư trong những năm
đầu tiên nhanh hơn so với năm sau.
12
- Trợ cấp đầu tư: nhà nước chi từ ngân sách các khoản trợ cấp cho đầu tư,
kể cả những khoản đầu tư không mang lại lợi nhuận.
Xét về mặt hiệu quả, các quy định về khấu trừ đầu tư hay trợ cấp đầu tư
có thể tốt hơn so với miễn giảm thuế có thời hạn. Chi phí của các quy định này
có thể tính toán được và chi phí đó tương quan với số vốn đầu tư. Sự ưu đãi có
thể áp dụng đối với tất cả các hình thức đầu tư vốn hoặc chỉ có thể giới hạn đối
với một số loại hình nhất định như máy móc, thiết bị công nghệ thông tiên tiến,
hoặc đầu tư nghiên cứu – phát triển. Còn đối với việc miễn giảm thuế có thời
hạn thì lợi ích dành cho nhà đầu tư một phần phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
quy định về ưu đãi với các nguyên tắc thông thường về khấu hao và giảm lỗ.
Trong trường hợp khi phần lớn các khoản đầu tư ban đầu có thể không mang lại
lợi tức trong những năm đầu, cộng với việc khấu hao nhanh sẽ không mang lại
lợi ích cho những nhà đầu tư mà ngược lại có thể làm tăng thêm gánh nặng về
thuế. Trong những trường hợp đó, việc thực hiện khấu trừ đầu tư trong những
năm đó sẽ thực sự trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
3.5.4 Trợ cấp tái đầu tư
Trợ cấp tái đầu tư thực chất là được miễn thuế lợi tức thông qua việc cho
phép số lợi tức dùng để tái đầu tư, hay một phần của nó được trừ khỏi lợi tức
chịu thuế khi tính thuế, hoặc bằng cách cho các cổ đông được hoàn thuế đã
thanh toán với một tỷ lệ nhất định của tổng số lợi tức tái đầu tư. Vốn đầu tư có
thể được đầu tư vào chính công ty đã tạo nên lợi tức đó hay đầu tư vào một số
ngành nhất định nào đó.
3.5.5 Giảm thuế khấu trừ tại nguồn
Việc giảm thuế khấu trừ tại nguồn là việc sử dụng mức thuế suất bằng
không hay cắt giảm mức thuế khấu trừ tại nguồn nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài hay khuyến khích một số dự án về chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn như
một khoản lợi tức tiền vay được hưởng từ mức thuế suất ưu đãi, miễn thuế lợi
tức cho các khoản cổ tức trả cho cổ đông người nước ngoài. Hình thức này đã
được sử dụng ở nhiều nước.
13
3.5.6 Các khoản giảm trừ đặc biệt:
Khoản giảm trừ đặc biệt là khấu trừ gấp đôi cho một số loại chi phí nhất
định. Đây là hình thức ưu đãi phổ biến ở Singapo và Malaysia. Hai quốc gia này
cho phép khấu trừ gấp đôi số chi phí được phép khấu trừ đối với một loạt các chi
phí được coi là thúc đẩy xuất khẩu hay đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ cho
khách hàng nước ngoài. Malaysia còn cho khấu trừ gấp đôi các chi phí liên quan
đến du lịch và đào tạo nhân công.
3.5.7 Giảm thuế thu nhập cá nhân và bảo hiểm xã hội
Nhiều nước sử dụng biện pháp này như một hình thức ưu đãi đặc biệt cho
những người điều hành hay công nhân nước ngoài nhằm đảm bảo sự công bằng
trong điều tiết thuế. Việc giảm thuế đối với tiền lương và đóng góp bảo hiểm xã
hội thường được sử dụng để thu hút đầu tư vào những vùng có tỷ lệ thất nghiệp
cao hay để khai thác một số lực lượng lao động nhất định.
3.5.8 Miễn giảm thuế tài sản
Miễn giảm thuế tài sản là một hình thức phổ biến và có tác dụng lớn đối
với việc ưu đãi đầu tư. Theo quan điểm của Nhà nước thì việc miễn giảm thuế
tài sản có lợi thế là chi phí của việc miễn giảm có thể tính toán được. Còn về
phía các nhà đầu tư thì cho rằng hình thức này sẽ tạo ta lợi tức ngay lập tức và
có tính khả thi ngay cả khi không có lợi tức để đánh thuế. Hình thức ưu đãi này
nói chung thường được thực hiện trong một thời gian nhất định. Nó giống như
việc cấp tiền trong vòng một số năm và đặc biệt thích hợp với việc thức đẩy các
khoản đầu tư mới. Các ưu đãi kiểu này thường được áp dụng như một bộ phận
của chính sách phát triển vùng nói chung và nó thường do chính quyền địa
phương, chính quyền vùng quy định hơn là chính quyền trung ương.
3.5.9 Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan
Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan là một trong những hình thức
có sự khuyến khích cao nhất trong các hình thức ưu đãi đầu tư, đặc biệt là đối
với hàng hoá và tài sản thực hiện quá trình đầu tư. Hình thức ưu đãi này có
14
chung đặc điểm với miễn giảm thuế tài sản là không phụ thuộc vào khả năng có
lợi tức. Nó là một khoản tiền lớn có trước và tạo ra sự tiết kiệm ngay từ đầu cho
các nhà đầu tư. Miễn thuế quan thường được áp dụng đối với thiết bị nhập khẩu,
đôi khi đối với toàn bộ thiết bị vốn, trong một vài trường hợp nó được áp dụng
đối với một số nhất định các loại máy móc, thiết bị công nghệ tiến bộ kỹ thuật.Ở
một số nước, một nhà đầu tư khi góp vốn điều lệ vào một công ty mới thành lập,
được miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, sự miễn thuế
trong những trường hợp như vậy chỉ được thực hiện cho một số nhà đầu tư nhất
định, nên có thể gây nên sự bóp méo trong cạnh tranh và trái với những nguyên
tắc thương mại quốc tế. Việc miễn giảm thuế như trên không chỉ là thuế nhập
khẩu mà còn bao gồm các loại thuế khác thu ở khâu nhập khẩu như thuế giá trị
gia tăng.
3.5.10 Quy định khởi điểm thu thuế và mức miễn thu: thể hiện sự chiếu cố
những người có thu nhập thấp, có gia cảnh khó khăn…
3.5.11 Các đặc khu kinh tế
Các đặc khu kinh tế bao gồm nhiều hình thức và quy mô khác nhau, phục
vụ cho những mục đích nhất định: Khu miễn thuế xuất nhập khẩu, khu kinh tế tự
do, khu thương mại tự do, khu thương mại quốc tế và đặc khu kinh tế. Hiện nay,
có khoảng hơn 800 đặc khu kinh tế đang tồn tại ở trên 100 nước khác nhau trên
thế giới, cung cấp việc làm cho hơn 5 triệu lao động và đóng góp một phần quan
trọng trong tổng kim ngạch thương mại thế giới. Một đặc điểm nổi bật của các
đặc khu kinh tế là các quy định xử lý đặc biệt về miễn thuế và nghĩa vụ hải quan
mà không được áp dụng ở các khu vực bên ngoài. Đặc điểm cơ bản của đặc khu
kinh tế là được hưởng miễn hay giảm các loại thuế khác mà sự miễn giảm đó
nhìn chung không được thực hiện ở các khu vực ngoài vùng. Các đặc khu kinh
tế rất khác nhau về diện tích và mục đích thành lập. Về bản chất các khu này là
các khu công nghiệp mà các nhà đầu tư được hưởng các đặc lợi; trong đó có đặc
lợi rất lớn về thuế.
3.5.12 Các vùng miễn thuế hải quan
15
Đặc điểm cơ bản của các hình thức khác nhau của vùng miễn thuế hải
quan là chúng được hưởng sự miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Mặc dù một
vùng miễn thuế hải quan được tạo nên từ một phần của lãnh thổ địa lý và vật
chất của một quốc gia nhưng nó lại không tạo nên một phần lãnh thổ của quốc
gia đó với mục đích hải quan. Trong thực tế vùng đó được đối xử như lãnh thổ
của một quốc gia khác. Hàng hoá được đưa vào vùng từ nước ngoài không bị coi
là nhập khẩu vào quốc gia của vùng đó và hàng hoá đưa từ vùng vào quốc gia đó
lại coi như nhập khẩu. Trái lại, hàng hoá được coi là xuất khẩu khi đưa từ nước
chủ nhà vào vùng và không được xem là xuất khẩu từ vùng đó vì nó nằm ngoài
phạm vi hải quan. Một số vùng miễn thuế hải quan bị hạn chế trong hoạt động
thương mại, trong khi các vùng khác được thành lập như một vùng sản xuất hay
gia công hàng hoá.
3.6 Công cụ ưu đãi
Có thể có rất nhiều các hình thức ưu đãi thuế song xét về công cụ để sử
dụng thì có thể kể đến 3 loại công cụ ưu đãi:
16
- Thuế suất thấp
Thuế suất thấp là mức thuế suất được đưa ra thấp hơn mức thuế suất
thông thường (thuế suất phổ thông). Thuế suất cao hay thấp ngoài việc giải
quyết vấn đề tỷ lệ phân phối giữa Nhà nước và người nộp thuế, nó chủ yếu còn
phân biệt giữa Nhà nước và người nộp thuế, nó chủ yếu còn phân biệt rất tõ ràng
giữa những đối tượng nộp thuế khác nhau, qua đó, tạo ra sự có lợi hay bất lợi,
lợi lớn hay lợi nhỏ… nhằm khuyến khích hay hạn chế đối tượng nộp thuế nào
đó. Hay nói cách khác, thuế suất thấp là cong cụ giúp cho các nhà đầu tư dễ
nhận biết đầu tư vào khu vực nào thì được Nhà nước ưu đãi hơn. Về phía cơ
quan thuế thì việc tính toán số thuế phải nộp nhanh chóng hơn.
Tuy nhiên việc ban hành mức thuế suất thấp đối với các đối tượng được
ưu đãi thường thể hiện quá rõ ràng ưu ái của Chính phủ đối với các đối tượng
được ưu đãi, số tiền miễn giảm cũng lớn và vì vậy dễ gây nên tâm lý có sự phân
biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; Bên cạnh đó, việc tính toán số tiền thuế mà Nhà
nước cho các doanh nghiệp cũng khá phức tạp. Đối với các nhà đầu tư, ngay sau
thời gian áp dụng thuế suất giảm thì áp dụng ngay mức thuế suất thông thường
có chênh lệch khá lớn so với mức thuế suất giảm nên có thể dẫn đến tâm lý đột
ngột mất khoản lợi nhuận của các nhà đầu tư. Vì vậy, các nhà đầu tư thường tính
đầu tư trong thời gian được hưởng thuế suất thấp. Nếu thời gian chưa đủ để họ
thực hiện dự án thì họ sẽ không đầu tư.
Thuế suất thấp thường được sử dụng khi các nhà đầu tư đầu tư vào các
vùng khó khăn.
- Giảm tỷ lệ thuế:
Giảm tỷ lệ thuế là giảm tỷ lệ % nhất định trên mức thuế phải nộp. Điều
này thể hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ hay chiếu cố. Ngược lại áp dụng
thuế suất luỹ tiến từng phần, luỹ tiến toàn phần lại thể hiện chính sách hạn chế
hay trừng phạt.
17