1. Trang chủ >
  2. Chuyên ngành kinh tế >
  3. Thuế >

Cơ sở tính thuế hay căn cứ tính thuế:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.77 KB, 56 trang )


Nói cách khác cơ sở xác định khả năng chịu thuế của một công ty là dựa trên

khái niệm một công ty cư trú hay không cư trú ở một nước. Một công ty cư trú ở

một nước có nghĩa vụ kê khai toàn bộ thu nhập chịu thuế phát sinh ở trong nước

và ngoài nước. Còn công ty không cư trú, nhưng có cơ sở thường trú ở một nước

chỉ có nghĩa vụ kê khai thu nhập phát sinh tại nước đó.

Phương pháp đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập (Đánh thuế trên cơ sở

xuất xứ) tức là chỉ có những thu nhập phát sinh trong lãnh thổ của cơ sơ sản xuất

kinh doanh đó bị đánh thuế.

Như vậy, việc đánh thuế dựa trên nguồn thu nhập sẽ có cơ sở tính thuế eo

hẹp hơn cách đánh thuế dựa trên tiêu chuẩn thường trú khi trên lãnh thổ 1 quốc

gia nào đó có nhiều công ty hoạt động kinh doanh của nước ngoài

+ Tính thường xuyên hay không thường xuyên của việc phát sinh thu nhập.

- Khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN cần phải quán triệt các nguyên tắc

cơ bản sau đây:

+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập bằng tiền, tức là chỉ những thu nhập được

tính ra bằng tiền mới đưa vào thu nhập chịu thuế, theo đó thì những thu nhập

dưới dạng hiện vật phải được tính thành tiền và những thu nhập nhận được từ

các lợi ích công cộng không được tính vào thu nhập chịu thuế.

+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập ròng, tức là thu nhập nhận được sau khi

đã trừ đi các chi phí hợp lý và cần thiết để tạo ra thu nhập đó;

+ Thu nhập chịu thuế là thu nhập thực tế. Tức là chỉ những thu nhập mà

doanh nghiệp thực sự nhận được trong kỳ tính thuế mới được tính còn những thu

nhập đang ở dạng tiềm ẩn thì không được tính vào thu nhập chịu thuế. Ví dụ

những khoản trừ chiết khấu giảm giá cho khách hàng, trị giá hàng bị trả lại sẽ

được khấu trừ không được tính vào thu nhập chịu thuế, ngược lại những khoản

trợ giá, phụ thu mà doanh nghiệp được hưởng lại được tính vào thu nhập chịu

thuế.

2.1.2 Xác định thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp:

Xác định đúng đắn thời gian tính thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề vô

cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi luật thuế vì việc xác định

đúng thời gian tính thuế sẽ đảm bảo giá trị đồng tiền nộp thuế trước tình trạng



5



lạm phát, tránh sự lợi dụng chiếm dụng tiền thuế và thực hiện chi tiêu theo kế

hoạch của Nhà nước.

2.1.3 Tuỳ theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung,

phương pháp xác định các khoản chi phí có sự khác nhau. Các khoản chi phí

được khấu trừ về nguyên tắc phải có các đặc trưng sau:

+ Chi phí phải liên quan tới doanh nghiệp hay có thể nói rõ hơn đó là các

chi phí phải được chi ra cho các mục đích tạo ra thu nhập chịu thuế.

+ Chi phí phải thật được chi ra.

+ Mức trả cho chi phí phải hợp lý.

+ Chi phí phải có tính “thu nhập” hơn là tính vốn. Chi phí mang tính chất

vốn là những khoản chi liên quan đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chi phí

mang tính chất thu nhập là những khoản chi phí liên quan trực tiếp đến tạo ra thu

nhập.

Mặc dù có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí được

khấu trừ nhưng nhiều khoản chi phí không nằm trong phạm vi các nguyên tắc

trên. Các chi phí đó là:

a. Vốn thu hoạch lại: là số tiền thanh lý tài sản, nhượng bán tài sản. Có 3

quan điểm về việc đánh thuế đối với vốn thu hoạch lại:

- Quan điểm 1: Đánh 1 phần vào 1 số loại vốn thu hồi được, chủ yếu đánh

vào đất, cổ phần.

- Quan điểm 2: Không đánh thuế thu nhập vì nói không mang tính chất thu

nhập mà mang tính chất vốn.

- Quan điểm 3: Đánh thuế thu nhập trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại vì

người ta coi đó là khoản thu nhập.

Để đánh thuế chính xác, ở các nước có hệ thống thuế hiện đại, người ta cho

laọi trừ các nhân tố ảnh hưởng (ví dụ như lạm phát). Ở các nước hệ thống thuế

chưa phát triển, đánh thuế trên toàn bộ khoản vốn thu hồi lại.

b. Lợi tức cổ phần: là một khoản thu nhập của doanh nghiệp do doanh

nghiệp đóng góp cổ phần vào công ty khác. Có 2 quan điểm:

- Quan điểm 1: Không nên đánh thuế vì trước khi nhận được lợi tức cỏ

phần, khoản này đã bị đánh thuế ở doanh nghiệp mà mình góp cổ phần.



6



- Quan điểm 2: Nếu coi đây là khoản thu nhập thì vấn đánh thuế.

Người ta đưa ra cách xử lý:

- Khấu trừ tiền thuế đã nộp ở khâu trước khi nhận được thu nhập.

- Đánh vào một phần thu nhập từ lợi tức cổ phần.

c. Lãi tiền gửi: Đây là khoản thu nhập của doanh nghiệp nên nên đánh thuế

thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu khuyến khích hoạt động cho vay vốn thì

không đánh vào lãi tiền gửi.

d. Thu nhập từ nước ngoài: nếu căn cứ vào tiêu thức thường trú thì nên

đánh. Tuy nhiên đây là khoản thu nhập từ nước ngoài đã bị đánh thuế thu nhập

doanh nghiệp của nước ngoài nên nếu đánh thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ dẫn

đến đánh trùng thuế, hạn chế đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh.

e. Khấu hao tài sản cố định: là một yếu tố của hci phí nhưng được phân bổ

như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc, tỷ lệ

khấu hao tài sản cố định nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế phải tương ứng với

vòng đời kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều quốc gia, khấu hao

đưa vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với vòng đời hữu dụng

của tài sản.

g. Các khoản thuế được khấu trừ:

Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì không được coi là khoản chi phí

khấu trừ.

Đối với thuế đánh trên hàng hoá (thuế gián thu) thì được coi là chi phí và

được phép khấu trừ vì thực chất đây là một khoản chi phí mà Công ty phải trả

khi mua hàng hoá và nó được coi như là một chi phí tạo ra lợi nhuận.

h. Chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị, tiếp tân, tiếp khách…: Việc xác định

định mức bao nhiều là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ.



7



2.2 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế suất là mức động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối tượng

tính thuế. Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết

của nhà nước đối với một đối tượng tính thuế; thể hiện quan điểm của Nhà nước

về yêu cầu động viên nhằm khuyến khích hay không khuyến khích sự phát triển

của một ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Thuế suất được xác định

bằng đại lượng tuyệt đối hay bằng tỷ suất.

Cơ cấu thuế suất thuế thu nhập công ty được thiết kế khác nhau tuỳ thuộc

điều kiện và chính sách kinh tế của từng nước. Một chính sách thuế thu nhập

thông minh không phải là đặt ra mức động viên thuế cao (thuế suất cao), điều

quan trọng là thuế suất cần quy định ở mức vừa phải trên cơ sở xem xét, cân

nhắc đến cả lợi ích: Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời cần phải mở rộng

diện thu thuế, đa dạng hoá đối tượng thu và không bỏ sót nguồn thu, gánh nặng

thuế được san sẻ cho nhiều người cùng chịu.

3. Ưu đãi miễn, giảm thuế

3.1 Khái niệm:

Ưu đãi về thuế là việc một quốc gia, một tổ chức Quốc tế dành những điều

kiện, những quyền lợi đặc biệt về thuế cho một tổ chức quốc tế, một quốc gia,

một doanh nghiệp hay một cá nhân nào đó hơn so với những quốc gia khác, tổ

chức khác hay đối tượng khác.

Nói cách khác, ưu đãi thuế là hình thức cho người nộp thuế được hưởng

những điều kiện thuận lợi khi thực hiện nghĩa vụ thuế.

3.2 Đặc điểm của các ưu đãi thuế

Ưu đãi thuế là một trong những bộ phận của chính sách ưu đãi nên nó

mang đầy đủ đặc điểm của chính sách ưu đãi. Ngoài ra nó còn có một số đặc

điểm chủ yếu sau:

- Chỉ có tổ chức quốc tế và các quốc gia mới có quyền đặt ra ưu đãi thuế

vì tổ chức quốc tế và quốc gia có quyền quản lý. Ưu đãi chỉ tồn tại khi nó thực

hiện được. Muốn vậy, đối tượng ban hành ra nó phải có quyền lực nhất định. Tổ

chức quốc tế có quyền lực quản lý trong phạm vi các quốc gia theo các cam kết

mà các quốc gia này đã ký kết; Nhà nước có quyền quản lý quốc gia trên mọi



8



phương diện hay nói cách khác có Nhà nước thì mới có thuế, mới có ưu đãi

thuế. Vì vậy, chỉ có tổ chức quốc tế và Nhà nước ở các quốc gia có quyền đặt ra

ưu đãi thuế.

- Ưu đãi thuế nhằm vào mục đích phát triển. Vì vậy, các tổ chức quốc tế,

các khu vực, Nhà nước ở các quốc gia đều đưa ra hệ thống ưu đãi thuế khác

nhau tuỳ hoàn cảnh của mỗi nước, tuỳ mục tiêu phát triển nền kinh tế trong từng

thời kỳ.

- Giới hạn về chủ thể và thời hạn ưu đãi thuế: Cũng như chính sách ưu

đãi, chính sách ưu đãi thuế nhằm mục đích nhất định thì phải có chủ thể nhất

định. Thời gian ưu đãi thuế cũng phải được tính đến để cho phù hợp với sự phát

triển của doanh nghiệp. Nếu thời gian quá ngắn thì các nhà đầu tư chưa có khả

năng khắc phục khó khăn nhưng nếu thời gian quá dài thì có khi không những

không có tác dụng lắm đối với kích thích đầu tư mà còn tạo ra nhiều mặt tiêu

cực vì chính sách ưu đãi nói chung và chính sách ưu đãi thuế nói riêng bên cạnh

những mặt tích cực thì còn có rất nhiều những hạn chế như: tạo ra sự mất công

bằng, gây méo mó nền kinh tế...

- Chính sách ưu đãi thuế làm giảm cơ sở thuế bao gồm có thể là giảm thuế

suất hoặc giảm số thu.

- Mặc dù việc ban hành các ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư rất phổ

biến tại các nước trên thế giới, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về tác dụng

của các biện pháp ưu đãi thuế này đối với việc thu hút đầu tư. Đối với các nhà

đầu tư, việc quyết định đầu tư vào một nước thường phụ thuộc vào toàn bộ các

yếu tố của nước sở tại, trong đó ưu đãi thuế chỉ là một trong lý do để cân nhắc

và không phải là yếu tố quan trọng nhất. Nguồn tài nguyên, sự ổn định về chính

trị và kinh tế, minh bạch trong hệ thống pháp luật, việc có đầy đủ các hệ thống

hỗ trợ (ví dụ: các hệ thống ngân hàng, vận tải, viễn thông và các tiện ích hạ

tầng), khả năng dễ chuyển lợi tức ra nước ngoài và lực lượng lao động chuyên

nghiệp và giá rẻ thường là những yếu tố quyết định hơn vấn đề về thuế khi xem

xét các vị trí đầu tư thích hợp. Nếu các yếu tố này là thuận lợi và hệ thống thuế



9



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×