1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Câu 13/ Lý luận là gì? Tư duy lý luận là gì? Vai trò của triết học Mác trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận? Bình luận nhận định của Ph.Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”… “Cứ mỗi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.56 KB, 90 trang )


với việc trang bị cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn từ đó hình thành nên tư duy

lý luận phù hợp giúp ta có thái độ khách quan trong việc nhìn nhận đánh giá sự vật hiện tượng, xem xét,

xử lý với sự vật, sự việc một cách linh hoạt, mềm dẻo.

Để nâng cao khả năng tư duy lý luận ta cần phải có thế giới quan đúng đắn hiểu được sự vận động

của sự vật hiện tượng xảy ra xung. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập một nhân sinh

quan tích cực, biểu hiện bằng thái độ sống tích cực. Vì thế, trình độ phát triển của thế giới quan là một

tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá về mức độ phát triển, trưởng thành của một cá nhân cũng như một cộng

đồng nhất định.

Theo Ph.Ăngghen, Tư duy lý luận phải được gắn liền với sự phát triển của khoa học, việc gắn với

sự phát triển của khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được mối liên hệ bên trong của các sự vật hiện tượng.

Vì thế để có được tư duy lý luận đúng đắn người ta cần phải nắm vững toàn bộ tri thức ở mọi lĩnh vực,

bao gồm tri thức khoa học tự nhiên, tri thức khoa học xã hội và cả tri thức triết học, cũng như cả kinh

nghiệm sống của con người. Tuy nhiên, trong tất cả các tri thức đó, tri thức triết học chính là nhân tố cốt

lõi nhất, trực tiếp nhất tạo nên thế giới quan. Bởi vì chỉ có triết học mới đặt ra, một cách trực tiếp, rõ ràng

để rồi tìm lời giải đáp cho các vấn đề mang tính thế giới quan như bản chất thế giới là gì? Con người có

quan hệ thế nào với thế giới? Con nguời có vị trí và vai trò gì trong thế giới này? v.v… Mặt khác, với nét

đặc thù của mình là một loại hình lý luận, triết học đã cho phép diễn tả thế giới quan của con người dưới

dạng một hệ thống các phạm trù trừu tượng, khái quát. Qua đó, triết học đã tạo nên một hệ thống lý luận

bao gồm những quan điểm chung nhất về thế giới như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan

hệ giữa con người với thế giới xung quanh.

Tư duy biện chứng là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Phương pháp biện chứng duy vật như

là điều kiện không thể thiếu để hình thành tư duy lý luận. Do đó một cách tất yếu là trong quá trình hình

thành quan điểm duy vật về lịch sử, thì song song và cùng với nó là cần phải sử dụng phương pháp nào để

có thể hình thành được tư duy biện chứng duy vật. Phương pháp luận được hiểu ngắn gọn là lý luận về

phương pháp. Phương pháp luận biểu hiện qua những quan điểm, nguyên tắc, vấn đề lý luận được rút ra,

rồi chúng dần dần tạo thành hệ thống những luận điểm lý luận gắn bó với nhau một cách chặt chẽ và làm

nên nội dung của tư duy lý luận

Triết học với tư cách là hệ thống quan điểm lý luận về thế giới, bất kỳ một lý luận triết học nào ra

đời, thể hiện một quan điểm, một sự lý giải nhất định về các sự vật, hiện tượng thì đồng thời cũng bộc lộ

một phương pháp xem xét cụ thể (biện chứng hay siêu hình) về sự vật, hiện tượng đó. Hơn nữa, lý luận

triết học đó còn biểu hiện là một quan điểm chỉ đạo về phương pháp. Nói cách khác, mỗi một quan điểm

lý luận triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

Một học thuyết triết học đồng thời là một hệ thống các nguyên tắc chung, cơ bản nhất, là xuất phát điểm

chỉ đạo mọi suy nghĩ và hành động.

Tóm lại, Việc tìm hiểu, vận dụng triết học là một điều kiện không thể thiếu của việc nâng cao hiểu biết và

năng lực tư duy lý luận, là điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân

tộc. Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì

không thể không có tư duy lý luận” . Đồng thời ông cũng chỉ rõ “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính

bẩm sinh dưới dạng năng lực của con người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn

thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết

học thời trước” .

d/ Bình luận nhận định của Ph.Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của

khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”… “Cứ mỗi lần khoa học đạt được thành tựu mới

thì triết học phải thay đổi hình thức tồn tại của chính mình”.

51



Một trong những điểm khác nhau căn bản giữa con người và con vật không phải ở nhận thức mà ở

năng lực tư duy. Bởi lẽ - như Ph.Ăngghen nói - con vật cũng có nhận thức, cho dù nhận thức ấy không có

gì là tối cao cả, nhưng con vật không có năng lực tư duy. Về thực chất, tư duy là giai đoạn, là trình độ cao

của quá trình nhận thức hiện thực khách quan của con người. Đó là quá trình ý thức con người tiếp cận và

nắm bắt hiện thực khách quan một cách gián tiếp thông qua các khái niệm, phán đoán, suy luận lôgíc.

Nhờ có tư duy mà con người có thể nhận thức được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng,

qua đó mà cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình.

Sự hình thành và phát triển tư duy của loài người là một quá trình lâu dài, phức tạp. Trong nhiều

triệu năm của xã hội cộng sản nguyên thủy, tư duy của con người từng bước hình thành, phát triển. “Con

người bản năng, người man rợ” chưa tự tách mình ra khỏi giới tự nhiên, chỉ “người có ý thức” mới tự tách

mình “khỏi giới tự nhiên”. Đây cũng chính là lúc tư duy con người mới thực sự hình thành và từng bước

phát triển.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, khi mà con người còn hoàn toàn sống dựa vào tự nhiên, hiểu

biết của họ về giới tự nhiên còn hết sức ít ỏi..., thì tư duy của họ chỉ có thể hình thành được một hệ thống

kinh nghiệm về một số lĩnh vực nào đó có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày của họ mà thôi.

Người nguyên thủy chưa có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa những sự vật, hiện tượng riêng lẻ để

xây dựng nên hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học. Điều đó chỉ được diễn ra khi mà lực lượng sản

xuất (trước hết là công cụ lao động) đã có những cải tiến nhất định, năng suất lao động xã hội không

ngừng tăng lên, sản phẩm xã hội đã có dư thừa, phân công lao động xuất hiện. Xã hội hình thành lớp

người chuyên lao động trí óc, v.v.. Lúc này tư duy loài người đạt đến một trình độ cao hơn về chất so với

xã hội cộng sản nguyên thủy: tư duy lý luận, tư duy khoa học ra đời.

Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản ánh hiện thực khách

quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính

bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức.

So với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận đóng một vai trò hết sức to lớn trong nhận thức và cải

tạo thế giới. Nhờ có tư duy lý luận mà con người mới phát hiện ra được các quy luật vận động và phát

triển của hiện thực khách quan. Hướng sự vận động đó vào phục vụ lợi ích của con người. Ph.Ăngghen

từng nói rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư

duy lý luận”.

Tư duy lý luận chính trị khoa học là tư duy lý luận chính trị mácxít. Về thực chất, đó là tư duy biện

chứng duy vật khoa học (cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội) - một hình thái tư duy được hình thành trên

cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức khoa học mà loài người đã đạt được từ xưa

cho đến nay và luôn luôn được vận dụng một cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để không

ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Ngoài ra, tư duy lý luận phải được gắn liền với sự phát triển của

khoa học bởi lẽ theo Ph.Ăngghen “Cứ mỗi lần khoa học đạt được thành tựu mới thì triết học phải thay

đổi hình thức tồn tại của chính mình”. Việc gắn với sự phát triển của khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm

được các mối liên hệ bên trong của các sự vật hiện tượng. Ph.Ăngghen viết, khi tôi tổng kết những thành

tựu của toán học và khoa học tự nhiên như vậy thì vấn đề cũng là để thông qua những cái riêng, thấy rõ

thêm cái chân lý mà nói chung tôi đã không nghi ngờ chút nào cả, cụ thê là cung những quy luật biện

chứng ấy của sự vận động...những quy luật như sợi chỉ đỏ xuyên qua cả lịch sử phát triển của tư duy loài

người đang dần dần đi vào ý thức của con người tư duy. khoa học tự nó cũng đã có sự tổng hợp biện

chứng. Thêm vào đó, các thành tựu cửa khoa học tự nhiên đã đưa lại những cơ sở khách quan, những kết

luận chung cho tư duy lý luận. Ph.Ăngghen chỉ rõ: Những thành tựu khoa học tự nhiên hiện đại đã chẳng

52



bắt buộc bất kỳ một người nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng phải thừa nhận chúng, bắt buộc với một

sức mạnh khiến các nhà khoa học tự nhiên hiện đại dù họ muốn hay không phải tiến tới những kết luận lý

luận chung, đó sao?". sự phát triển của khoa học nói chung và những phát minh mới trong khoa học nói

riêng sẽ dẫn đến sự mất đi một số khái niệm và đồng thời xuất hiện một số khái niệm khác. Dĩ nhiên, điều

đó không thể xem như là sự đổi mới thuật ngữ giản đơn của ngôn ngữ. Đó chính là quá trình làm sâu sắc

thêm về tư duy nhờ đó được những hình thức diễn đạt bằng lời tương ứng. Và quá trình làm “sâu sắc" tư

duy đó được gắn liền với việc mở rộng lĩnh vực áp dụng những hệ ngôn ngữ mới.

Nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới

đất nước, Đảng ta lấy đổi mới tư duy lý luận làm khâu “đột phá” cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới của mình.

Xuất phát từ tình hình thực tế xã hội của đất nước vào thập niên 80 của thế kỷ trước; xuất phát từ

những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội của Đảng, xuất phát từ bản chất cách mạng và

khoa học của lý luận Mác - Lênin, đứng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới cũng như

tác động của “cải cách, mở cửa” hay “cải tổ” đang diễn ra ở một số nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi chúng

ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”. Đó là đòi hỏi bức thiết của đất nước và cũng là đặc tính của

cách mạng, là bản chất sâu xa của chủ nghĩa Mác - Lênin, là xu thế tất yếu của thời đại.

Muốn đổi mới tư duy, đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ

nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản tinh thần quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm mà các đảng cộng sản anh em đạt được.

Trong đó việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật mácxít có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì đó là

cơ sở lý luận, là nền tảng cho đổi mới tư duy lý luận. Bởi lẽ như C.Mác nhận xét “Trong quan niệm tích

cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái

hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái để hình thành đều được phép biện

chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không

khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”.

Tính “phê phán” và “cách mạng” trong phép biện chứng duy vật mácxít đòi hỏi chúng ta không

được tự bằng lòng với tất cả những gì đã có. Nó đòi hỏi tư duy của chúng ta phải biến đổi, phản ánh sự

vận động thường xuyên của thế giới hiện thực. Nghĩa là nó đòi hỏi tư duy của chúng ta phải linh hoạt,

mềm dẻo, luôn luôn được mài sắc. Mọi giáo điều, xơ cứng trong tư duy lý luận đều trái với bản chất cách

mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác. Lênin thường nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Chúng ta

không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta

tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát

triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.

Để đổi mới tư duy một cách có hiệu quả, Đảng ta cho rằng cần phải tạo ra những điều kiện xã hội

thuận lợi cho quá trình đổi mới đó. Trước hết là bầu không khí dân chủ trong xã hội, nhất là trong sinh

hoạt Đảng, trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận; phải tôn trọng lẽ phải, tôn trọng chân lý theo

tinh thần: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật; phải tiến hành tự phê bình và phê

bình một cách thường xuyên và nghiêm túc... Có như vậy chúng ta mới khắc phục được những yếu kém,

tính chất trì trệ, bảo thủ, lạc hậu về tư duy lý luận.

Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta bao quát mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội.

Do đó cần phải có bước đi thích hợp, biết lựa chọn trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Vận dụng đặc

trưng cơ bản đó của quan điểm toàn diện, Đảng ta cho rằng, trong đổi mới tư duy thì “đổi mới tư duy kinh

tế” được coi là khâu “đột phá”. Từ tư duy của mô hình kinh tế hiện vật với hai thành phần kinh tế, Đảng

ta chủ trương chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo

thị trường và giá cả được quản lý chặt chẽ, thực sự đã tạo ra một bước chuyển biến tình hình kinh tế - xã

53



hội, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu

kinh tế hợp lý, đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng, đi vào ổn định và phát triển không

ngừng. Cùng với đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động

của Đảng và Nhà nước - đổi mới tư duy chính trị.

Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật... Pháp luật là thể

chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất

trong cả nước”. Đây là một bước tiến quan trọng trong đổi mới nhận thức, quan niệm của Đảng ta về

nhiệm vụ, vai trò quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu.

Đảng ta, nhân dân ta đã và đang thu được những thành tựu to lớn và toàn diện (không chỉ trong kinh tế,

chính trị, mà cả trong lĩnh vực văn hóa, an ninh - quốc phòng, ngoại giao, v.v.). Những thành tựu “có ý

nghĩa lịch sử” đó đã làm cho vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao. Ảnh hưởng và uy tín của

Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng lớn.

Ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội hiện thực đang đứng trước những thử thách

lịch sử. Thế giới đã và đang có những biến động phức tạp, các quốc gia và vùng lãnh thổ đang phải đối

mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế có tính toàn cầu, v.v.. Tất cả những điều đó đang đặt ra cho Đảng ta

nhiệm vụ phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn “mài sắc” tư duy theo tinh thần: phép biện chứng không cúi

mình trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.

Câu 15/ Phân tích cơ sở triết học (lý luận & phương pháp luận) trong khẳng định của Đảng Cộng

sản Việt Nam: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy

luật khách quan”.

Khẳng định trên của Đảng Cộng Sản Việt Nam là khẳng định vận dụng nguyên tắc khách quan của

chủ nghĩa duy vật biện chứng vì vậy cơ sở triết học của khẳng định trên chính là cơ sở triết học của

nguyên tắc khách quan.

Cơ sở lý luận

a. Khái niệm Vật chất: ‘‘Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem

lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại

không lệ thuộc vào cảm giác”.

b. Khái niệm Ý thức: “Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc của con người,

phản ánh thế giới vật chất xung quanh, hình thành và phát triển trong quá trình lao động và định hình thể

hiện ra bằng ngôn ngữ”

c. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức:

Vật chất là nguồn gốc của ý thức:

+ Nguồn gốc tự nhiên: ý thức không chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc

con người mà còn là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. CNDVBC cho rằng bộ óc con

người cùng với sự tác động của thế giới vật chất lên bộ óc con người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

+ Nguồn gốc xã hội: ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc

con người thông qua lao động, ngôn ngữ và diễn ra trong các quan hệ xã hội. thông qua các hoạt động lao

động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người có thể phản ánh được thế giới khách quan và hình

thành nên ý thức. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý

thức không thể tồn tại được.

54



Vật chất quyết định ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan và mang hai bản

chất là sáng tạo và xã hội.

+ Bản chất sáng tạo: Do được phản ánh từ thế giới khách quan vào đầu óc của con người nên ý

thức mang tính chủ quan; được hình thành và phát triển trong quá trình sáng tạo của con người nên mang

bản chất sáng tạo (phản ánh mang tính chọn lọc)

+ Bản chất xã hội: Ý thức được hình thành và phát triển trong hoạt động xã hội nên mang tính xã

hội do hoạt động lao động không phải là đơn lẻ mà là hoạt động trong cộng đồng, xã hội. Các đường lối

chính sách nhà nước đều mang tính xã hội, các tri thức cá nhân có được đều là do loài người trước đây và

hiện tại truyền lại cho nên cũng mang tính xã hội.

Tất cả các hoạt động của loài người đều phải xuất phát từ cơ sở vật chất hiện có, lợi ích của vật chất

chi phối tất cả hành vi của con người.

Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Thông qua hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức xâm nhập vào lực lượng vật chất và qua đó

chúng thể hiện vai trò tác dụng của mình qua việc vạch ra mục tiêu, kế hoạch, tìm kiếm biện pháp,

phương thức tổ chức thực hiện, kịp thời điều chính, uốn nắn hoạt động cong người theo mục đích đặt ra.

Nếu ý thức phản ánh đúng các đối tượng vật chất thì sẽ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người

có hiệu quả trong hoạt động cải tạo vật chất.

Nếu ý thức phản ánh sai lầm các đối tượng vật chất sẽ kìm hãm hoạt động của con người trong việc

cải biến các đối tượng

Phương pháp luận

a. Trong hoạt động nhận thức phải:

Xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của

vật chất, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy tiện đưa ra những nhận thức chủ quan.

Biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học có giá trị về

khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giải thuyết đó bằng thực nghiệm

b. Trong hoạt động thực tiễn phải:

Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.

Dựa trên các quy luật khách quan đó đê vạch ra các mục tiêu, kế hoạch, biết tìm kiếm biện pháp,

phương thức để tổ chức thực hiện, biết kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi ích

và ục đích được đặt ra.

Việc tuân thủ hai yêu cầu cơ bản của nguyên tắc khách quan giúp chúng ta tránh được chủ nghĩa

chủ quan, duy ý chí, tùy tiện...qua đó giúp chúng ta nâng cao tinh thần, dám nghĩ, dám làm…suy nghĩ và

hành động đúng phương pháp, có tri thức, phù hợp quy luật.

Quan điểm khách quan:

Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm DVBC về mối quan hệ giữa

vật chất và ý thức. Vật chất quyết định ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong nhận thức và hành

động phải đảm bảo tính khách quan , trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn

trọng và hành động theo các quy luật khách quan.

Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân SVHT,

từ thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý thức chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình

làm chính sách, không lấy ý chí áp đặt thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng

sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, không trung thực.

Nói như vậy không có nghĩa là quan điểm khách quan coi nhẹ tính năng động của ý thức. Quan điểm

khách quan không những không loại trừ mà còn đòi hỏi phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức

55



trong quá trình phản ánh sự vật. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính

năng động chủ quan trong việc tìm ra những con đường, những biện pháp để từng bước thâm nhập sâu

vào bản chất của sự vật. Điều đó phân biệt quan điểm khách quan với chủ nghĩa khách quan. Nguyên tắc

khách quan có ý nghĩa ngăn ngừa tư duy khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào sự vật

(khách thể nhận thức) một số yếu tố chủ quan vốn không có trong bản thân sự vật. Tuân theo quan điểm

khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.

Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo

quy luật khách quan.

Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới:

Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây, gây tác

hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy

nêu cường điệu tính sáng tạo củ ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là

khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí xa thời hiện thực khách quan, bất

chấp quy luật khách quan lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.

Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo

nguyện vọng chủ quan biểu hiện trong một số chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước xa rời

hiện thực khách quan.

Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém về tri thức khoa học, tri thức lý

luận không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội

, giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra

đời của bệnh chủ quan, duy ý chí...

Bài học kinh nghiệm của Đảng:

Trong quá trình xác định đường lối Cách mạng và chỉ đạo thực tiễn. Đảng Cộng Sản Việt Nam

luôn luôn quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "luôn luôn

xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động

theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu đúng đắn của Đảng" là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra

từ thực tiễn Cách mạng nước ta. Đó chính là biểu hiện coi quan điểm vật chất, các quy luật khách quan có

vai

trò

quyết

định

được

ý

thức

đối

với

nhận

thức.

Đảng ta thừa nhận đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, muốn nhanh chống

thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những

thành kiến không đúng trên thực tế chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn

tại khách quan (quy luật cung cầu, cạnh tranh giá trị) do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chế

định các chủ trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng trầm trọng.

Để khác phục được khuyết điểm, chuyển biến tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức,

đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong

đó các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã

hội. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông wua chủ trương chính sách của Đảng

và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông qua chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là sản

xuất phát triển, lu thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân từng bước được ổn định và

nâng cao, chế độ XHCN ngày càng được củng cố. Điều đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của

Đảng. Mọi chủ trương chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận động không đúng quy luật

khách quan, phải được sửa đổi hay bãi bỏ.



56



Câu 16. Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế

giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới”.

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự

phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng

của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin).

Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực tiễn lao

động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang/chứa ý

thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu

tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự

thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm

cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.

Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào

hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác

động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà

còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực tiễn xã hội.

Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả

năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự

báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa học hết sức trừu

tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống

tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của

những hiện tượng ấy.

Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện

thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất 3 mặt sau:

Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai

chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là quá

trình “ sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất tạo thành các ý tưởng

tinh thần phi vật chất.

Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng,

thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư

duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương

pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết quả

bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức.

Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam

cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động

tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò

chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.

Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện

sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt được những

thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời

gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực

và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên

phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có

57



nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng

nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không

có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư

tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá

đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật

chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh

thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời

sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì

con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có

vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện

cho sự phát triển toàn diện xã hội.

Câu 21. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể. Tại

sao nói: “Nguyên tắc lịch sử – cụ thể là ‘linh hồn’ phương pháp luận của chủ nghĩa Mác”.

Đảng CSVN đã vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào thực tiễn cách mạng VN hiện nay?

Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là toàn bộ nội dung lý luận của phép biện chứng duy

vật với tính cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một hệ thống các nguyên

lý, quy luật, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Cở sở

lý luận này xuất phát từ sự phản ánh trong phương thức tồn tại cụ thể của sự vật trong hiện thực.

Mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại trong hiện thực đều được tạo thành từ những yếu tố, bộ

phận khác nhau có muôn vàn sự tương tác lẫn nhau và với các sự vật hiện tượng khác qua đó bộc lộ

những tính chất không giống nhau. Mặt khác, mỗi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong tiến trình phát sinh,

phát triển và diệt vong của mình, quá trình này thể hiện cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển diễn

ra trong điều kiện khác nhau tương tác với sự vật hiện tượng hay quá trình khác nhau, trong không gian

và thời gian khác nhau.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin vì

nó tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp luận của triết học Mác –

Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng (thể hiện ở nguyên lý về

mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển).

Những yêu cầu cơ bản cùa nguyên tắc lịch sử - cụ thể:

1.

Bản thân các SV luôn luôn tồn tại trong những điều kiện không gian, thời gian khác nhau do đó

khi nhận thức chúng thì chúng ta phải chú ý đến những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ

thể trong đó SV sinh ra, tồn tại và phát triển. VD: quan điểm thủy chung cách đây 30 năm không đúng với

thời điểm hiện nay. Hay một luận điểm nào đó là đúng trong hoàn cảnh lịch sử này nhưng không đúng

trong hoàn cảnh lịch sử khác.

2.

Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể

của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:

 Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào, bị chi

phối bởi những quy luật nào;



58



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

×