Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 135 trang )
những mặt tích cực cũng sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực không kém phần gay gắt
như sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu nghèo...
Quá trình tích tụ đất đai có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển sản xuất.
Tích tụ đất đai giúp cho sử dụng ruộng đất đầy đủ, tiết kiệm và có hiệu quả,
góp phần bảo vệ, tái tạo và khôi phục chất lượng của chuyển đối cơ cấu cây
trồng, phát triển sản xuất hàng hoá theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Tích tụ đất đai có tác động tích cực đến thu nhập và đời sống của hộ
nông dân và được coi là điểm mấu chốt của quan hệ hàng hoá tiền tệ trong
sản xuất nông nghiệp và phân công lại lao động trong nông thôn.
Tích tụ đất đai sẽ khắc phục được tình trạng manh mún, tạo ra sự thuận
lợi cho người sản xuất ứng dụng các biện kỹ thuật thâm canh cây trồng, đem
lại hiệu quả cao; thực hiện tốt các biện pháp thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá và hợp
tác hoá, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển, thuận lợi cho công tác quản lý
đất đai.
Quá trình tích tụ đất đai là quá trình hình thành kinh tế nông trại sản
xuất hàng hoá quy mô lớn và là sự điều chỉnh một bước rất cơ bản và quan
trọng về quan hệ sở hữu trong nông nghiệp.
Trên thực tế hiện nay cho thấy, một mâu thuẫn lớn đang đặt ra cho nền
nông nghiệp nước ta là có nhiều sản phẩm có khối lượng hàng hoá lớn nhưng
lại được sản xuất ở những hộ có quy mô nhỏ. Vì thế chất lượng nông lâm sản
thấp, tính chất đồng nhất kém, người sản xuất trực tiếp không nắm bắt được
thông tin thị trường, hậu quả là sản xuất và phân phối các sản phẩm của nước
ta chịu những thua thiệt không nhỏ. Mâu thuẫn trên chỉ có thể giải quyết
được thoả đáng thông qua con đường tích tụ đất đai.
Sự chuyển dịch nền sản xuất từ sản xuất tự nhiên tự cấp tự túc sang
phát triển sản xuất hàng hoá là một xu thế mang tính quy luật trong tiến trình
phát triển xã hội. Đó là quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng
tập trung hoá, chuyên môn hoá được thực hiện trên cơ sở của sự tích tụ về đất
6
đai. Như vậy, trong điều kiện sản xuất hàng hoá đã tương đối phát triển, tích
tụ đất đai là điều kiện căn bản để chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc phân tán
manh mún sang sản xuất tập trung hoá, chuyên môn hoá và sản xuất hàng
hoá. Tích tụ đất đai ở những nơi có quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển có thể
dẫn đến tình trạng một bộ phận người sản xuất không có đất nhưng thu nhập
và đời sống của nhóm hộ này không những không bị ảnh hưởng mà một bộ
phận còn được cải thiện phát triển cao hơn. Tuy nhiên, nhưng ưu việt của tích
tụ đất đai cũng không được thể hiện ở những vùng đất trật người đông, các
tiềm năng tự nhiên đã được tập trung đầu tư khai thác ở mức tối đa.
Tóm lại, tích tụ đất đai là quá trình tất yếu khách quan của kinh tế hàng
hoá, là yêu cầu của sản xuất hàng hoá, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và phân công lại lao động trong xã hội.
2.1.3. Các hình thức tích tụ đất đai
Tích tụ đất đai có xu hướng tăng lên theo yêu cầu phát triển của sản
xuất hàng hoá. Tích tụ đất đai là việc sát nhập hoặc hợp nhất ruộng đất của
những chủ sở hữu khác nhau vào một chủ sở hữu hoặc hình thành một chủ sở
hữu mới có quy mô ruộng đất lớn hơn. Tích tụ đất đai diễn ra theo con đường:
hợp nhất ruộng đất của các chủ sở hữu cá biệt nhỏ hơn thành một chủ sở hữu
cá biệt khác lớn hơn. Một trong những con đường hợp nhất ruộng đất là thông
qua việc xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây.
Con đường sát nhập ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt cho một
chủ sở hữu cá biệt để tạo ra quy mô lớn hơn. Con đường này được thực hiện
thông qua biện pháp tước đoạt hoặc chuyển nhượng mua bán ruộng đất.
Các hình thức được diễn ra trong tích tụ đất đai đó là cho thuê đất, cho
thuê lại đất, mua đất, bán đất, cho mượn đất, mượn ruộng, đổi đất, góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất, thế chấp bằng ruộng đất, chuyển đổi quyền sử
dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất...
7
Với tư cách là một tài sản, một tư liệu sản xuất, cũng giống như các tài
sản khác, ruộng đất có những hình thức sở hữu nhất định và được quy định
bởi luất pháp. Việc xác lập các quyền lợi trong sử dụng ruộng đất ở các
quyền: sử dụng, thừa kế, chuyển đổi chuyển nhượng, thế chấp và cho thuê.
Quyền sử dụng của chủ thể sử dụng đất đã được Luật đất đai (1993), Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai (1998), Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật đất đai (2001) và luật đất đai (2003) quy định cụ thể như sau:
- Quyền sử dụng ổn định lâu dài: Người chưa sử dụng đất được quyền
sử dụng ổn định lâu dài và Nhà nước chỉ thu lại đất trong những trường hợp
pháp luật đất đai quy định cụ thể.Người sử dụng đất phải sử dụng đúng mục
đích Nhà nước quy định, nếu thay đổi mục đích sử dụng phải được phép của
cấp có thẩm quyền.
- Quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất được hiểu là người sử dụng đất
có quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất của mình cho người khác tức là chỉ
chuyển đổi về không gian, địa điểm mà không thay đổi mục đích sử dụng của
đất để thuận tiện cho việc sử dụng, trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
- Quyền chuyển nhượng quyền sử dụng là người được Nhà nước giao
quyền sử dụng đất có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó cho người
khác theo những quy định của pháp luật về đất đai.
- Quyền thừa kế quyền sử dụng đất không hoàn toàn giống như thừa kế
tài sản dân sự bởi lẽ đất đai thuộc sở hữu toàn dân và luôn nằm trong sự quan
lý của Nhà nước. Thừa kế là thừa kế quyền sử dụng chứ không phải thừa kế
quyền sở hữu đất.
- Quyền thế chấp là thế chấp quyền sử dụng đất không giống như thế
chấp tài sản khác. Quyền thế chấp này một mặt khẳng định tính pháp lý của
người chủ sử dụng hợp pháp đó, mặt khác giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trở thành công cụ pháp luật của việc lưu chuyển đất. Dùng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất làm thế chấp giá trị quyền sử dụng của mảnh đất đó
8
và tùy thuộc vào khả năng sinh lợi của mảnh đất đem thế chấp, bởi vì trong
thời gian thế chấp bên có vốn cho vay (bên nhận thế chấp) chỉ nhận giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bên thế chấp để làm tin chứ không nhận
đất sử dụng (trừ khi hết hạn mà không trả nợ).
- Quyền cho thuê: Là người sử dụng đất hợp pháp vì lý do bất khả
kháng nên tạm thời không sử dụng đất trong một thời gian nhất định thì được
cho người khác thuê đất của mình để sử dụng. Bên thuê đất phải sử dụng
đúng mục đích, trả tiền thuê, trả lại đất khi hết hạn thuê. Bên thuê và bên cho
thuê phải thực hiện đúng hợp đồng đã cam kết phù hợp với pháp luật.
Việc quy định các quyền của Nhà nước và các quyền của chủ thể sử
dụng đất trong đó có hộ nông dân tạo nên cấu trúc của quan hệ sở hữu đất đai
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, đồng thời tạo ra cơ sở
pháp lý cần thiết cho quan hệ đất đai vận động có hiệu quả trong cơ chế mới.
Đây là một biện pháp quan trọng để giải quyết tốt mối quan hệ giữa vấn đề sở
hữu đất đai với lợi ích chính đáng của người sử dụng đất trong nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai.
2.1.4. Đặc điểm, các mối quan hệ trong quá trình tích tụ đất đai
* Khác với các tư liệu sản xuất khác, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu
trong nông nghiệp và có những đặc điểm sau:
- Đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Như
chúng ta đã biết đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, chỉ từ khi con người
tiến hành khai phá đưa đất hoang hóa vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho
con người, thì ruộng đất đã kết tinh lao động con người và đồng thời trở
thành sản phẩm của lao động. Đặc điểm này đòi hỏi trong quá trình sử dụng,
con người phải không ngừng cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất, làm cho đất
ngày càng màu mỡ hơn.
- Đất bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của đất là
không có giới hạn. Điều này có nghĩa là mỗi đơn vị diện tích đất đai, nhờ
9
tăng cường đầu tư vốn, sức lao động, đưa khoa học và công nghệ mới vào sản
xuất và sản phẩm đem lại trên một đơn vị diện tích ngày càng nhiều hơn. Đây
là con đường kinh doanh chủ yếu của nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu
tăng lên về nông sản phẩm cung cấp cho xã hội.
Đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều, nó gắn liền với
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng. Đất với tư cách là
một yếu tố của sản xuất nông nghiệp, vị trí của ruộng đất gắn liền với điều
kiện sinh thái, xã hội và kinh tế. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu sử dụng đất một
cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Muốn sử dụng ruộng đất có hiệu quả, một
mặt phải quy hoạch các khu vực canh tác, bố trí các trung tâm dịch vụ và
phân bố các điểm dân cư hợp lý. Mặt khác phải cải thiện điều kiện tự nhiên,
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng làm như vậy
sẽ nâng cao được đời sống của nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông
thôn. Do ruộng đất có chất lượng không đồng đều giữa các khu vực nên trong
quá trình sử dụng cần thiết phải cải tạo và nâng cao độ phì cho đất để nâng
dần độ đồng đều của ruộng đất và đạt năng xuất cây trồng cao.
- Đất là tư liệu sản chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá
trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt
hơn, các tư liệu sản xuất khác sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn hữu
hình hoặc hao mòn vô hình, cuối cùng sẽ bị đào thải khỏi quá trình sản xuất
và thay thế bằng tư liệu sản xuất mới, chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn. Còn đất
– tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn, nếu sử dụng hợp lý, chất lượng
đất ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của đất lớn hơn, cho nhiều sản phẩm hơn
trên một đơn vị diện tích canh tác. Như vậy việc sử dụng ruộng đất đúng đắn
và có hiệu quả tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước, các chính
sách kinh tế vĩ mô khác và mục đích của người sử dụng đất.
* Các mối quan hệ trong quá trình tích tụ đất đai
Việc tích tụ đất đai vào tay chủ sở hữu mới tạo ra kết quả hai mặt:
10
- Một số hộ nông dân không có đất, buộc họ phải đi làm thuê hoặc rời
bỏ quê hương tìm kế sinh nhai.
- Tạo cho chủ đất có điều kiện áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đầu tư
thâm canh tăng năng suất cây trồng.
Bước đầu tiên của chính sách đất đai là tọa nên sự công bằng (mọi
người được chia đều diện tích sử dụng) nhưng công bằng hiểu theo nghĩa với
phát triển là cần tập trung vào tay những người làm nông nghiệp giỏi. Từ đó,
mâu thuẫn tiếp theo đặt ra là sẽ có người không có đất và có người nhiều đất,
những người không đủ đất sẽ lựa chọn hướng kinh doanh khác. Trong điều
kiện sức sản xuất kém, nghèo thì chia đều đất là quan trọng nên quá trình tích
tụ đất đai diễn ra rất khó khăn, phức tạp.
Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt, nó vừa là sản
phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy, các quan hệ trong
quá trình sử dụng ruộng đất được biểu hiện trên các phương diện tự nhiên,
kinh tế, xã hội.
Các quan hệ ruộng đất mà thực chất là các quan hệ của Nhà nước với
các tập thể, tác nhân sử dụng ruộng đất; giữa các cá nhân, tập thể sử dụng
ruộng đất với nhau phải được xác lập một cách hợp lý. Mối quan hệ ấy được
xây dựng thông qua việc phân định đúng đắn quyền năng của mỗi bên đối với
ruộng đất.
Quan hệ ruộng đất về mặt kinh tế là quan hệ được xem xét về khía
cạnh kinh tế. Trên phương diện này, ruộng đất được xem xét ở mục đích sử
dụng. Trong những điều kiện khác nhau ruộng đất sẽ được sử dụng với mục
đích khác nhau và vì vậy sẽ cho kết quả và hiệu quả khác nhau.
Quan hệ sở hữu về ruộng đất là một trong những quan hệ cơ bản nhất
trong quá trình sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Về mặt xã hội,
quan hệ sở hữu về ruộng đất là sự biểu hiện tập trung nhất trong quan hệ
ruộng đất, nó là nhân tố quyết định đến quan hệ đất đai về mặt tự nhiên và
11
kinh tế. Trong mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế độ sở hữu, mỗi quan hệ sở hữu
đất đai được biểu thị một cách khác nhau. Về bản chất các quan hệ ruộng đất
phải được đặt trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ của các yếu tố: kinh tế,
xã hội, chính trị và môi trường, trong đó yếu tố kinh tế là trọng tâm.
2.1.5. Xu hướng phát triển
Thực tế cho thấy, tích tụ đất đai được diễn ra với xu hướng thể hiện như:
- Đổi ruộng ở những thửa khác nhau tích tụ lại một thửa lớn cùng một
xứ đồng.
- Đi thuê đất và thuê lại đất để canh tác
- Đất được nhượng lại do kinh tế của hộ khó khăn, thiếu lao động hay
đi làm việc khác.
- Nhận thừa kế, xẩy ra đối với những trường hợp có quan hệ mật thiết.
Tất cả các hình thức trên đều với chung mục đích là gộp đất đai lại
thành thửa lớn tăng diện tích để tiện canh tác và áp dụng các biện pháp khoa
học kỹ thuật vào sản xuất.
Vì vậy, xu hướng tích tụ đất được biểu hiện như sau: Một số hộ làm ăn
khá giả, có vốn, có trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý kinh doanh muốn có
thêm đất đai để sản xuất. Đây là một yêu cầu tất yếu nảy sinh trong quá trình
phát triển kinh tế nông thôn, tạo ra những vùng chuyên môn hóa. Một số hộ
muốn vươn tới quy mô sản xuất lớn để thu lợi nhuận cao đã tìm cách tập
trung đất cho mình. Một số hộ yếu kém tự thấy không tự đảm bảo được cuộc
sống trên ruộng đất giao nhận đã chuyển nhượng, cho thuê lại đất để vừa đáp
ứng được yêu cầu cuộc sống trước mắt đồng thời tập trung nguồn lực cho các
nguồn thu nhập khác có hiệu quả hơn. Đây chính là con đường tất yếu để
giảm thiểu những lao động không cần thiết, chuyển lao động nông nghiệp
sang các ngành kinh tế khác, trước hết là công nghiệp, nó sẽ diễn ra khá
mạnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, đồng thời có tác dụng thúc đẩy nông
nghiệp phát triển.
12
Tuy nhiên, không thể không đề cập tới những yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình tích tụ đất đai, gồm các yếu tố khách quan mang tính xã hội như
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội,
chế độ quản lý ruộng đất, vai trò tác động của Nhà nước, triển khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm…và những yếu tố chủ quan của các
chủ thể sử dụng đất như nhận thức của nông dân, nhu cầu của nông dân về
ruộng đất…
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tích tụ đất đai
2.1.6.1. Sự phát triển của công nghệ
Cùng với ruộng đất, lao động và vốn, công nghệ trong nông nghiệp
cũng là nguồn lực quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của nông nghiệp.
Công nghệ có vai trò lớn trong hoạt động sản xuất và kinh doanh nông
nghiệp:
- Công nghệ giúp cho quá trình sản xuất được diễn ra có hiệu quả. Nhờ
có nông nghiệp mà các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, sinh vật, máy
móc và thời tiết khí hậu kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm nông nghiệp.
- Công nghệ là hướng tới tăng sản phẩm trong điều kiện nguồn lực
khan hiếm. Khi các tài nguyên khác như đất đai, lao động trở nên ngày một
khan hiếm, thì công nghệ có thể giúp cho con người sản xuất ra nhiều sản
phẩm hơn với số nguồn lực dùng vào sản xuất không đổi, thậm trí còn ít hơn.
- Công nghệ làm cho các đầu vào trong nông nghiệp ngày một đa dạng.
Không những công nghệ làm thay đổi bản chất giữa đầu vào và đầu ra mà
còn thay đổi bản chất của đầu vào hay tạo ra những đầu vào mới trong nông
nghiệp, góp phần tăng sản phẩm, giảm chi phí và bảo tồn môi trường. Công
nghệ được đổi mới làm cho sản xuất trở nên đa dạng và bền vững hơn.
- Công nghệ làm cho sản xuất có thu nhập cao hơn, có thời gian rảnh
rỗi dài hơn và do vậy góp phần làm tăng chất lượng cuộc sống của nông dân.
Sự thay đổi công nghệ là sự hoàn thiện về kiến thức hay kỹ thuật để
13
nâng cao năng lực sản xuất. Nông dân tự rút kinh nghiệm trong quá trình sản
xuất và sử dụng các nguồn lực dẫn đến thay đổi kỹ thuật. Sự thay đổi khoa
học kỹ thuật do nông dân đã và sẽ là một trong những động lực rất căn bản
trong sự phát triển nông nghiệp nhất là hiện nay không phải ngẫu nhiên mà
chúng ta có các chương trình nghiên cứu và khuyến nông có sự tham gia của
người dân. Khi công nghệ ngày càng phát triển đòi hỏi các công dân phải tiến
hành tập trung ruộng đất thành các thừa lớn hơn, gọn khu, gọn khoảnh khi đó
việc áp dụng các khao học công nghệ mới vào sản xuất mới đem lại hiệu quả
cao và bảo vệ được môi trường sinh thái, phát triển nông lâm nghiệp theo
hướng bền vững.
2.1.6.2. Quan hệ thị trường
Sản phẩm nông nghiệp được tiêu dùng trực tiếp qua trao đổi trên thị
trường, một phần được giành làm nguyên liệu cho các ngành chế biến và một
phần giữ lại phục vụ cho quá trình sản xuất ở nông trại. Do vậy cầu cho nông
sản bao gồm cầu cho tiêu dùng trực tiếp, cầu cho chế và cầu cho sản xuất.
Cung hàng hoá trong nông nghiệp là lượng một mặt hàng hay dịch vụ mà
người bán muốn bán ở mức giá chấp nhận được. Trong nông nghiệp cần phân
biệt khối lượng nông sản dự trữ và sản phẩm sản xuất. Lượng sản phẩm dự
trữ phản ánh khả năng cung trên thị trường. Sản phẩm sản xuất là khối lượng
sản phẩm được sản xuất ra mùa vụ xác định.Thực tế, cung nông phẩm có thể
cao hơn so với mức sản xuất hiện hành do có sự bổ sung của lượng sản phẩm
dự trữ từ các vụ trước. Ngay cả sản phẩm sản xuất ra, nông dân thường dữ lại
một phần cho tiêu dùng gia đình và chỉ một phần được đưa ra thị trường.
Thị trường nông phẩm thường có nhiều người bán và nhiều người mua.
Giá nông phẩm sẽ do cả cung và cầu quy định. Tính chất tươi sống và dễ hư
hỏng của sản phẩm, chi phí bảo quản, giá của sản phẩm cũng làm ảnh hưởng
không nhỏ đến thu nhập của người nông dân. Như vậy tập trung ruộng đất sẽ
tạo cho nông dân có nhiều đất đai để canh tác, thâm canh tăng vụ tạo ra nhiều
14
sản phẩm cho thị trường. Tuy nhiên, để cho người sản xuất không bị thua
thiệt khi đem sản phẩm sản xuất ra thị trường và khuyến khích được người
nông dân trong sản xuất cần có sự can thiệp của Chính phủ về chính sách giá
cả như xác định giá trần, giá sàn hoặc thực hiện quỹ bình ổn giá để ổn định
giá cả trong nông nghiệp.
2.1.6.3. Chính sách nông nghiệp
Chính sách đất đai của Việt Nam là tập hợp các quy định của Chính
Phủ để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực quản
lý và sử đụng đất trên phạm vi lãnh thổ Quốc gia, với tất cả các loại đất,
nhằm mục tiêu quản lý và sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các
mặt kinh tế - xã hội - môi trường.
Chính sách nông nghiệp, nông thôn là tổng hợp các biện pháp của Nhà
nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng, nội
lực, phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt hạn chế tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất… đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp hàng hóa. Chính sách của Nhà nước là hành lang pháp lý, nó không
bất định mà được bổ sung, sửa đổi ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng yêu cầu
sản xuất kinh doanh của xã hội. Các chính sách đều hướng tới mục tiêu mang
tính tổng quát là sử dụng đầy đủ và hợp lý ruộng đất để tạo ra ngày càng
nhiều nông sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của mọi tầng lớp dân cư, có tác động tích cực đến các ngành kinh
tế quốc dân, tạo ra nhiều nông sản cho xuất khẩu, không ngừng bảo vệ, bồi
dưỡng và nâng cao chất lượng của ruộng đất. Từ mục tiêu nêu trên các chính
sách cần phải đạt được những mục tiêu cụ thể sau:
+ Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
+ Khuyến khích người sử dụng ruộng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền
vốn và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật để làm tăng giá tri sử
dụng đất, thâm canh tăng vụ nâng cao hiệu quả sử dụng, khai hoang, phục
15
hóa, lấn biển, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, mở rộng diện tích sản xuất
nông nghiệp, bảo vệ, cải tạo và làm tăng độ màu mỡ của đất, sử dụng tiết
kiệm đất.
Ở Việt Nam, trong điều kiện gần 80% dân số tập trung tại nông thôn và
sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp nên Đảng ta xác định nông nghiệp luôn là
mặt trận hàng đầu và Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông
nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản có đất để sản xuất, đồng thời Nhà
nước bảo hộ mọi quyền lợi và lợi ích của người sử dụng đất hợp pháp. Vì vậy
vấn đề hạn điền được đặt ra nhằm góp phần phân công lao động tránh việc
phân hóa ngày càng nhanh giữa người giàu và người nghèo tại nông thôn,
tránh việc đầu cơ đất đai làm trắng tay những người nông dân có khả năng
làm giàu từ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, vấn
đề hạn điền lại có quan hệ chặt chẽ với vấn đề tập trung ruộng đất. Tập trung
ruộng đất là yêu cầu khách quan của nông nghiệp hàng hóa song Luật đất đai
cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước phải khẳng định rõ việc tập
trung ruộng đất phải dựa trên nguyên tắc: Hiệu quả sản xuất kinh doanh,
không cho phép buôn bán đất, kinh doanh theo kiểu phát canh thu tô. Tập
trung ruộng đất một mặt giải quyết cho những người trực tiếp tổ chức sản
xuất kinh doanh sản phẩm hàng hóa nông nghiệp có đất để sử dụng, mặt khác
vẫn đảm bảo cho nông dân có đất để sản xuất.
Hạn điền là mức đất tối đa mà luật pháp cho phép cá nhân được quản
lý, sử dụng. Vấn đề hạn điền được quy định tại điều 44 - Luật Đất đai quy
định: “Hạn mức đất nông nghiệp trồng cây hàng năm của mỗi hộ gia đình à
không quá 3ha do Chính phủ quy định cụ thể đối với từng địa phương”…
Vấn đề này cũng được quy định tại điều 70 – Luật Đất đai 2003. Như vây,
Chính phủ trong thẩm quyền của Luật đất đai phải có quy định cụ thể rõ ràng
về quyền lợi của người có diện tích lớn vượt quá hạn mức. Việc quy định này
một mặt phải đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất,
16