Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 109 trang )
PHẦN I: VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH
NGHIỆP
I. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG NGÀY NAY
1 Khái niệm
Đầu tư là việc huy động các nguồn lực nhằm biến các lợi ích dự kiến
thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Một
nguồn lực quan trọng mà mọi dự án đầu tư đều phải huy động đó là nguồn
vốn.
Theo K Marx, vốn là tư bản (Capital), là giá trị đem lại giá trị thặng
dư. Theo đó vốn được xem xét dưới giác độ giá trị, là một đầu vào của quá
trình sản xuất. Quan điểm này có tính khái quát cao mang ý nghĩa thực tiễn
đến tận ngày nay tuy nhiên nó hạn chế ở chỗ cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị
thặng dư và chỉ ở khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh
tế.
Sau Marx, các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế
khác nhau đã đưa ra nhiều quan điểm về vốn. Trong các quan điểm đó phải
kể đến quan điểm về vốn của P. Samuelson và của D. Begg. Theo P.
Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình
sản xuất mới, là một trong ba yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp (vốn, lao động, đất đai). Như vậy vốn ở đây được
3
xem xét dưới hình thái hiện vật, là tài sản cố định của doanh nghiệp. Khác
với Samuelson, trong cuốn "Kinh tế học " của David Begg, tác giả đưa ra hai
định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ
các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là
tiền và các loại giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được xem xét dưới góc độ
là một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là
của một quá trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời
gian tồn tại của doanh nghiệp, thậm chí ngay cả khi doanh nghiệp không
còn tồn tại thì vốn của nó lại được chuyển vào các quá trình sản xuất kinh
doanh khác. Theo quan điểm này vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các
quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật tư,
hàng hoá, tài sản của doanh nghiệp. Vốn ở đây khác với tiền tệ thông thường
khác. Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất kinh doanh,
ngược lại nó không được coi là vốn khi chỉ được dùng để mua sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội.
Quan điểm này kế thừa các quan điểm trước về vốn. Quan điểm này
chỉ rõ vốn là giá trị được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
đem lại lợi nhuận, tức là mang lại giá trị thặng dư. Vốn có hình thái biểu
hiện là các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như nhà xưởng máy móc
thiết bị, vật tư cũng như các loại hàng hoá dự trữ, các khoản nợ, tiền mặt
(ngân quỹ)...Đồng thời vốn tồn tại dưới dạng hiện vật hoặc hình thái phi hiện
vật.
Vốn là giá trị ứng ra để bỏ vào sản xuất kinh doanh, hình thành lên
các tài sản của doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng phải
có vốn, vốn có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Điều này đòi
4
hỏi các doanh nghiệp phải có nhận thức đúng đắn về vốn cũng như những
đặc trưng cơ bản của vốn. Đó là tiền đề cho việc quản lý sử dụng vốn một
cách có hiệu quả. Căn cứ vào khái niệm trên, ta có thể thấy vốn có những
đặc trưng cơ bản sau:
• Vốn được biểu hiện bằng các tài sản của doanh nghiệp dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác, tồn tại dưới
dạng hữu hình hoặc vô hình. Đó là các loại máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, nguyên vật liệu...hay vị trí kinh doanh, nhãn hiệu sản phẩm,
bản quyền phát minh...
• Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh là nhằm mục tiêu sinh lời, đem
lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong tương lai. Do đó vốn phải được
tích luỹ đến một mức độ nhất định.
• Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói chung một đồng vốn ngày
hôm nay có giá trị cao hơn một đồng vốn vào ngày mai. Điều này có
ý nghĩa quan trọng trong việc tính toán lựa chọn phương án đầu tư và
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
• Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng
vốn vô chủ. Nếu không xác định rõ được chủ sở hữu vốn thì việc sử
dụng vốn sẽ kém hiệu quả. Đặc trưng này đòi hỏi chủ sở hữu vốn
phải thực hiện quản lý vốn.
•
Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Trước hết nói vốn là một loại
hàng hoá bởi nó có giá trị sử dụng và giá trị. Vốn là hàng hoá đặc
biệt bởi lẽ quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể tách rời nhau, tức
là vốn có thể được đem ra trao đổi lấy quyền sử dụng trên thị trường
(thị trường vốn).
5
2. Phân loại vốn
Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu mà có nhiều tiêu thức phân loại vốn
khác nhau như theo nguồn hình thành, theo phương thức chu chuyển, theo
thời gian huy động và sử dụng vốn...Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp, người ta thường phân loại vốn theo phương thức chu chuyển,
tức là phân chia vốn làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động, đồng thời
kết hợp với các tiêu thức khác nhau để xem xét vốn dưới nhiều góc độ hơn.
2.1 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển :
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên
tục. Nó biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến
tư liệu lao động, hàng hoá dự trữ...Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra
đặc điểm chu chuyển vốn, theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là
vốn cố định và vốn lưu động.
2.1.1 Vốn cố định
Cơ sở để phân biệt vốn cố định là hình thái biểu hiện của nó, tức là
dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định
a)Tài sản cố định:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tư liệu sản
xuất. Căn cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ
phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ
cho doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất. Trong
quá trình đó giá trị của tư liệu lao động bị giảm đi mặc dù giá trị sử dụng vẫn
6
như ban đầu, giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị của
sản phẩm.
Tài sản cố định là bộ phận tư liệu lao động chủ yếu quan trọng nhất
của doanh nghiệp. Đó là những tư liệu lao động được sử dụng một cách trực
tiếp hay gián tiếp vào sản xuất như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương
tiện vận tải...Trong quá trình đó, nó không thay đổi hình thái vật chất ban
đầu đồng thời có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó
được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm. Sau một thời
gian giá trị của tài sản cố định sẽ được chuyển hết vào giá trị của sản phẩm,
khi đó tài sản cố định đã hết thời hạn sử dụng.
Nhà nước ta quy định tài sản cố định là những tư liệu lao động thoả
mãn đủ hai điều kiện sau đây:
-Thời gian sử dụng tối thiểu là một năm.
-Giá trị phải đạt đến một độ lớn nhất định. Hiện quy định là trên 5
triệu đồng.
Tài sản cố định của doanh nghiệp có nhiều loại, để quản lý sử dụng
hiệu quả chúng người ta phân tài sản cố định làm hai loại là tài sản cố định
hữu hình và tài sản cố định vô hình.
-Tài sản cố định hữu hình : Bao gồm 6 loại sau:
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc.
Loại 2: Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh
Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn
Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý
Loại 5: Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho ra sản phẩm.
7
Loại 6: Tài sản cố định khác
-Tài sản cố định vô hình: Là những tư liệu lao động không có hình
thái vật chất nhưng vẫn thoả mãn đủ hai điều kiện của tài sản cố định. Tài
sản cố định vô hình có thể kể đến là: Lợi thế thương mại, uy tín công ty,
nhãn hiệu sản phẩm, chi phí thành lập doanh nghiệp...
b) Vốn cố định:
Vốn cố định là bộ phận vốn ứng ra để hình thành tài sản cố định. Nói
cách khác vốn cố định là giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình tiếp
theo để đầu tư vào tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Khi tham gia vào sản xuất, tài sản cố định không bị thay đổi hình thái
vật chất ban đầu nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, sự suy giảm giá
trị đó được gọi là hao mòn hữu hình. Đồng thời giá trị thuần tuý của chúng
giảm dần do có những tài sản cố định cùng loại rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Bộ
phận giá trị hao mòn này chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm, điều đó
quyết định đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ: Vốn dưới
hình thái hiện vật và vốn tiền tệ.
Phần giá trị tài sản cố định ứng với mức hao mòn được chuyển dần
dần vào giá trị của sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị
này là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành lên giá thành của sản phẩm
dịch vụ. Hình thái tiền tệ của phần giá trị này được gọi là tiền khấu hao tài
sản cố định. Tiền khấu hao tài sản cố định được tích luỹ lại qua nhiều quá
trình sản xuất kinh doanh và được gọi là vốn tiền tệ của doanh nghiệp. Bộ
phận này dùng để tái sản xuất tài sản cố định, duy trì năng lực sản xuất của
donh nghiệp. Qua các chu kỳ sản xuất phần vốn tiền tệ này tăng dần.
8
Phần giá trị còn lại của tài sản cố định được "cố định" lại trong hình
thái hiện vật của tài sản cố định. Phần giá trị này giảm dần qua các chu kỳ
cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố định hết thời hạn sử
dụng cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn tiền tệ đạt đến
giá trị ứng ra ban đầu về tài sản cố định. Vốn cố định đã hoàn thành một
vòng luân chuyển.
Thông thường vốn cố định là bộ phận quan trọng chiếm một tỷ trọng
cao trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển của nó lại
tuân theo quy luật riêng. Do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2.1.2 Vốn lưu động:
a)Tài sản lưu động
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài tài sản cố định, doanh
nghiệp luôn có một lượng tài sản nhất định nằm trong các khâu của quá trình
kinh doanh như: dự trữ vật tư hàng hoá phục vụ sản xuất, bán thành phẩm,
sản phẩm dở dang, sản phẩm chưa tiêu thụ...Đây chính là tài sản lưu động
của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động chủ yếu là đối tượng lao động và các công cụ lao
động nhỏ (là tư liệu lao động không có đủ điều kiện để trở thành tài sản cố
định). Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động này không
giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu mà chúng tạo thành thực thể của sản
phẩm hoặc mất đi. Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất
kinh doanh, giá trị của chúng được chuyển toàn bộ vào sản phẩm và được
thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
9
Tài sản lưu động vận động không ngừng. Ở các khâu khác nhau của
quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động biểu hiện dưới những hình
thức khác nhau. Đó là cơ sở để phân chia tài sản lưu động thành ba loại sau:
-Tài sản lưu động trong khâu dự trữ: là bộ phận tài sản lưu động dùng
để chuẩn bị , dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh như: nguyên nhiên vật
liệu, phụ tùng...
-Tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất: là tài sản lưu động tham
gia vào quá trình sản xuất. Dưới tác động của tư liệu lao động và sức lao
động, tài sản lưu động này bị biến dạng và chuyển vào thực thể của sản
phẩm hay bị mất đi. Ví dụ như sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các
khoản chi phí chờ kết chuyển...
-Tài sản lưu động lưu thông: là các tài sản lưu động đang được hoàn
thiện ở khâu cuối cùng. Kết thúc quá trình này giá trị của tài sản lưu động
được thực hiện, ví dụ như các khoản phải thu, tạm ứng, các khoản thế chấp,
ký cược ký quỹ ngắn hạn...
b)Vốn lưu động:
Vốn lưu động là số tiền ứng ra về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách liên
tục. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt
đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và quay trở về
hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên
tục do đó vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng theo chu kỳ. Đó là sự
chu chuyển của vốn lưu động.
Căn cứ vào công dụng của vốn lưu động, người ta phân chia vốn lưu
động thành ba loại là:
10
-Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ: đó là giá trị nguyên vật
liệu, nhiên liệu, phụ tùng...phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
-Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: đó là giá trị sản phẩm
dở dang, bán thành phẩm, các phí tổn tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ...
-Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: là giá trị thành phẩm,
hàng hoá mua ngoài...
Các hình thái vốn này cùng song song tồn tại và thay đổi chỗ cho
nhau, vận động không ngừng nhằm làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Doanh nghiệp phải nắm rõ các
bộ phận cấu thành của vốn lưu động để từ đó có biện pháp huy động và sử
dụng vốn lưu động một cách phù hợp, dảm bảo nhu cầu vốn lưu động, đẩy
nhanh tốc độ luân chuyển vốn cũng như tránh ứ đọng vốn
2.2 Phân loại vốn theo nguồn hình thành:
2.2.1 Vốn chủ sở hữu:
Là phần giá trị do những người sở hữu doanh nghiệp, những nhà đầu
tư ứng ra để thành lập và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Những người chủ
sở hữu của doanh nghiệp có thể là nhà nước hay chủ doanh nghiệp, các cổ
đông hoặc các thành viên của doanh nghiệp. Có thể chia vốn chủ sở hữu làm
ba loại là:
Vốn góp: là phần giá trị do các chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của
doanh nghiệp đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Đối với
doanh nghiệp nhà nước thì phần lớn vốn góp là do nhà nước đầu tư. Đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, vốn góp là do các thành
viên hoặc cổ đông đóng góp được ghi trong điều lệ của công ty.
11
Lợi nhuận không chia: là phần lợi nhuận không phân chia cho các chủ
sở hữu như là lợi tức mà được tái đầu tư vào doanh nghiệp, do đó làm tăng
vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây là một nguồn vốn có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là ở các công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
Vốn chủ sở hữu khác: là vốn nội bộ của doanh nghiệp lấy từ hoạt
động sản xuất kinh doanh bằng cách lấy một phần từ quỹ đầu tư phát triển,
quỹ dự phòng tài chính,... để đầu tư vào doanh nghiệp. Ngoài ra đối với các
Doanh nghiệp nhà nước còn có phần khấu hao tài sản cố định được để lại
doanh nghiệp để đầu tư, thay thế , đổi mới tài sản cố định...
2.2.2 Vốn huy động của doanh nghiệp:
Đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vốn chủ sở hữu
đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là tất cả nguồn vốn đầu tư vào
doanh nghiệp đều là vốn chủ sở hữu. Để đáp ứng nhu cầu vốn, doanh nghiệp
có thể huy động dưới các hình thức khác nhau như: vay nợ, liên doanh liên
kết, đi thuê...., hình thành lên các nguồn vốn huy động khác nhau. Đó là:
Vốn vay: là phần vốn huy động được bằng cách đi vay của các cá
nhân, đơn vị kinh tế hoặc đi vay trên thị trường tài chính dưới các hình thức
khác nhau như vay ngắn, trung, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác, vay qua phát hành trái phiếu. Ưu điểm của hình thức này là
không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp
phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn (lãi suất) và các chi phí khác để đi
vay...
Vốn liên doanh liên kết: là phần vốn do các bên tham gia liên doanh,
hợp tác sản xuất với doanh nghiệp đóng góp. Thông qua hình thức này, tổng
12
số vốn của doanh nghiệp được tăng lên mà chất lượng, chủng loại của sản
phẩm được cải thiện, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vốn tín dụng thương mại: là các khoản vốn có nguồn gốc từ các
khoản mua chịu từ người cung cấp cho doanh nghiệp hay các khoản ứng
trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng.
Vốn tín dụng thuê mua: là phần giá trị tài sản có được do đi thuê trên
thị trường. Có hai hình thức đi thuê là thuê vận hành và thuê tài chính. Với
sự phát triển của thị trường, tài chính tín dụng thuê mua ngày càng đóng vai
trò quan trọng nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
2.3 Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng:
Theo phương pháp này vốn được chia thành hai loại là:
Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn
của doanh nghiệp. Đặc điểm của nguồn vốn này là ổn định và dài hạn.
Doanh nghiệp có thể dùng nó để đầu tư mua sắm tài sản cố định và một phần
tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Phần tài sản lưu động được đầu tư bởi vốn thường xuyên
được gọi là tài sản lưu động ròng.
Tài sản lưu
động
Nợ ngắn hạn
Vốn tạm thời
Nợ dài hạn
Tài sản cố định
Vốn chủ sở hữu
13
Vốn thường xuyên