Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 109 trang )
Ngoài các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
người ta phải xét đến số vòng quay của vốn lưu động và thời gian của một
vòng luân chuyển của vốn lưu động vì nó giúp ta thấy được khả năng quay
vòng vốn của doanh nghiệp. Trong năm 2000 số vòng quay của vốn lưu
động tăng lên 10,9%, tức là vốn lưu động luân chuyển nhanh hơn. Trong
một chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn lưu động quay được gần 1,6 vòng. Do
đó thời gian luân chuyển của vốn lưu động được rút ngắn còn 226 ngày so
với 251 ngày một vòng của năm 1999. Nhưng đến năm 2001, số vòng quay
vốn lưu động lại giảm xuống do đó thời gian luân chuyển chậm hơn. Một
chu kỳ sản xuất kinh doanh năm 2001 vốn lưu động quay được 1,259 vòng,
chậm hơn 20,9% so với năm 2000. Thời gian luân chuyển cũng lâu hơn. Để
vốn lưu động quay được một vòng cần 285 ngày, tăng 26,1% so với năm
2000. Điều đó chứng tỏ tốc độ doanh thu thuần đã không tăng lên tương ứng
với tốc độ tăng vốn lưu động làm giảm số vòng quay của vốn. Đồng thời
việc thu hồi các khoản phải thu của khách hàng (chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng vốn lưu động) cũng như các loại vốn lưu động khác rất chậm làm
tăng thời gian luân chuyển của vốn lưu động. Điều này ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sở dĩ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp năm 2001
lại giảm thấp như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng trong đó nguyên
nhân quan trọng nhất là sự bất định, không thường xuyên trong việc công ty
được thanh toán các khoản nợ và phải thường xuyên duy trì một khối lượng
các khoản phải thu của khách hàng cũng như các khoản phải thu khác lớn đây cũng là một đặc điểm của sản xuất xây dựng. Vì vậy, hoạt động quản lý
thu hồi công nợ và quản lý vốn lưu động trong khâu tiêu thụ sản phẩm là rất
cần thiết.
72
3 Đánh giá tình hình sử dụng vốn tại công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước thực hiện kết hợp nhiệm vụ kinh tế
với quốc phòng và lại hoạt động trên một thị trường có tính cạnh tranh ngày
càng quyết liệt, ban lãnh đạo công ty Tây Hồ đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh
của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển. Với bản chất là
những người lính đi làm kinh tế, lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên
công ty Tây Hồ đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh thần
cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có, liên tục huy động về trang thiết
bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng phát triển năng
lực sản xuất, mở rộng quy mô, đầu tư thiết bị hiện đại nhằm khẳng định vị
trí của công ty trên thị trường xây dựng cũng như trong các đơn vị quốc
phòng làm kinh tế.
Tuy nhiên, xuất phát từ một đơn vị Quốc phòng nay đi làm nhiệm vụ
kinh tế, khi bước vào lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ này công ty Tây Hồ đã gặp
phải rất nhiều khó khăn đặc biệt là trong công tác quản lý tài chính mà trong
đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn rất được doanh nghiệp quan tâm
chú ý. Mặc dù trong thời gian qua doanh nghiệp có nhiều cố gắng nhưng
trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn của công ty vẫn bộc lộ một số hạn
chế. Nguyên nhân của các hạn chế này bao gồm cả những lý do chủ quan và
khách quan như do những khó khăn từ phía thị trường buộc công ty phải đưa
ra những giải pháp tình thế chưa phù hợp và một phần cũng do những khiếm
khuyết mà công ty khó tránh khỏi trong công tác quản lý tài chính.
3.1 Những kết quả đạt được:
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng vốn của công ty đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ. Doanh thu thuần không ngừng tăng trong các
năm qua khiến đem lại cho công ty nhiều lợi nhuận. Công ty đã thành công
73
trong việc đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng điều hoà
khá linh hoạt càng làm tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn. Điều này thể hiện ở
chỗ thời gian qua mặc dù được tài trợ chủ yếu bởi nợ ngắn hạn, song công ty
vẫn không bị mất khả năng thanh toán. Số nợ ngắn hạn được sử dụng để tài
trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngày càng tăng và một phần nhu cầu tài sản cố
định của đơn vị. Với cơ cấu vốn chưa thật sự hợp lý song công ty đã cố gắng
duy trì được mức lợi nhuận dương.
Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động tăng trong năm
2000 rồi lại giảm trong năm 2001 nhưng về mặt giá trị thì hiệu quả sử dụng
vốn của công ty đã là một thành tích mà không phải doanh nghiệp xây dựng,
nhất là doanh nghiệp xây dựng quốc phòng nào cũng đạt được trong tình
hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Hiện nay, hiệu suất sử dụng vốn cố
định của công ty được duy trì ở mức 7,83 đồng, hiệu quả sử dụng vốn cố
định là gần 8%. Các chỉ số trung bình của ngành xây dựng là 4,5 đồng đối
với hiệu suất sử dụng tài sản cố định và 7% đối với hiệu quả sử dụng vốn cố
định. Như vậy kết quả không thể phủ nhận được là công ty đã duy trì được
sản xuất kinh doanh theo mức chung của các doanh nghiệp xây dựng hiện
nay.
Công ty đã duy trì được lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số vốn của công ty do đó tạo thuận lợi cho công ty trong sản xuất kinh
doanh, chi phí khấu hao thấp giảm giá thành tăng lợi nhuận. Công ty đã tận
dụng tốt những khoản nợ ngắn hạn mà chủ yếu là vay ngắn hạn và các khoản
phải trả phải nộp khác để tài trợ cho tài sản lưu động và một phần khá quan
trọng tài sản cố định. Điều này không phải là dễ dàng bởi muốn dùng nợ
ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn công ty phải có đủ uy tín cũng như
khả năng phát triển. Việc duy trì các khoản phải thu lơn cũng chưa hẳn là
74
xấu nếu công ty biết rõ khả năng có thể thu hồi lại được số công nợ này.
Đồng thời công ty có thể ký kết được các hợp đồng mới hoặc có quan hệ
kinh doanh với số khách hàng chưa trả nợ này. Nếu biết tiếp thị tốt cũng như
duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài này, trong thời gian sắp tới chắc chắn
công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn do chính sách tín dụng thương mại
thu hút khách hàng. Vì vậy vốn lưu động cũng như vốn cố định sẽ được sử
dụng hiệu quả hơn.
3.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
Qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn ở trên ta có thể dễ dàng nhận thấy
hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã giảm trong năm 2001. Điều đó cho thấy
công tác quản lý và sử dụng vốn năm 2001 đã có nhiều vướng mắc cần phải
tháo gỡ để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định:
Trong năm 2000 và 2001 hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định
của công ty đều giảm. Sở dĩ như vậy là do doanh thu và lợi nhuận của công
ty tăng chậm so với sự gia tăng của vốn cố định bình quân. Đặc biệt năm
2001 lợi nhuận của công ty giảm so với năm 2000 khiến cho hiệu quả sử
dụng vốn cố định giảm gần một nửa. Như vậy một hạn chế cơ bản là tài sản
cố định đầu tư mới đã không phát huy được tác dụng. Tài sản cố định tăng
liên tục trong các năm 2000 và 2001 song doanh thu và lợi nhuận lại không
tăng tương ứng. Nguyên nhân là do các tài sản cố định mới đầu tư ít được sử
dụng do khối lượng công việc tăng không đáng kể, công suất của máy móc
cũ có thể đáp ứng được yêu cầu của các công trình. Vì vậy, máy móc thiết bị
mới hầu như ít được dùng trong khi đó vẫn phải tính và trích khấu hao đối
với số máy móc thiết bị mới này. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất kinh
doanh của đơn vị. Như vậy vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi
75
doanh thu và lợi nhuận tăng lên chậm hoặc giảm đi là một hạn chế trong
công tác quản lý sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động:
76
Như đã nhiều lần đề cập ở phần trước, trong lĩnh vực xây dựng hiện
nay, các công ty xây dựng ( bên B ) phải ứng trước một khối lượng vốn lớn
để tiến hành thi công, còn việc thanh toán sẽ được chủ đầu tư ( bên A ) thực
hiện thành nhiều lần trong và sau quá trình thi công. Do đó, một phần lớn
vốn lưu động của các đơn vị xây dựng là các khoản phải thu của khách hàng,
có những khoản kéo dài tới hàng năm hoặc lâu hơn nữa mà chưa được thanh
toán. Số phải thu của khách hàng này lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài
sản lưu động cũng như vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi
phí, tăng khả năng sinh lợi cũng như tăng số vòng quay của vốn lưu động
phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của việc quản lý và thu hồi các khoản phải
thu.
Trong năm 2001 hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp
giảm chứng tỏ công tác thu hồi nợ của công ty kém, tồn kho cũng như các
khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển...lớn khiến doanh
nghiệp bị ứ đọng vốn, giảm tốc độ luân chuyển cũng như sức sinh lợi của
vốn lưu động.
77
Trong cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp có một bộ phận quan
trọng nằm trong khâu sản xuất và khâu dự trữ nhằm đảm bảo cho quá trình
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Bộ phận chủ yếu của
vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất là giá trị của sản phẩm dở dang hay
chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Trong các doanh nghiệp xây dựng, đây
có thể là các công trình, các hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành
hay khối lượng công tác dở dang trong kỳ chưa được bên chủ đầu tư nghiệm
thu, chấp nhận thanh toán hoặc chi phí phát sinh từ khi khởi công công trình
đến thời điểm kiểm kê đánh giá đối với các công trình quy định thanh toán
sau khi hoàn thành toàn bộ. Vì đặc điểm của ngành xây dựng là có chu kỳ
sản xuất dài, giá trị sản phẩm dở dang lớn nên nếu các doanh nghiệp hoạt
động trên lĩnh vực xây dựng cơ bản đẩy nhanh được tốc độ lưu chuyển bộ
phận vốn lưu động này thì chắc chắn sẽ góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả
sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ chủ yếu là
nguyên vật liệu tồn kho. Tỷ trọng hai khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang và nguyên vật liệu tồn kho trong tổng vốn lưu động của đơn vị đang
tăng trong hai năm qua. Nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kéo dài nên
nhiều công trình chưa được hoàn thành và công ty phải duy trì sẵn sàng
nguyên vật liệu cho thi công các hạng mục này. Một số công trình thi công
bị gián đoạn vì bên A sửa thiết kế hay do thiếu vốn khiến công ty không có
tiền thanh toán nguyên vật liệu và trả lương cho công nhân. Ngoài ra hai
năm qua còn có một số các công trình chậm được quyết toán do nguyên
nhân khách quan cũng như chủ quan ... gây ra tình trạng công trình chậm
được nghiệm thu hoặc thanh toán, nguyên vật liệu phải sẵn sàng ở trong kho
để sử dụng tăng tức là nguyên vật liệu tồn kho tăng. Do đó hiện tượng ứ
đọng vốn lưu động tác động xấu đến công tác quản lý và sử dụng vốn lưu
78
động tại doanh nghiệp. Đây cũng là một vấn đề cần xem xét tìm ra giải pháp
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
79
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY TÂY HỒ
I- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI
GIAN TỚI
Cùng với đà phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và của
ngành xây dựng Việt Nam nói riêng, Công ty Tây Hồ-Bộ Quốc phòng đã
đưa ra phương hướng và các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể để phấn đấu nâng cao
năng lực sản xuất mở rộng thị trường nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ
nay đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu để đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Việc xây dựng, cải thiện và nâng cấp
cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Do đó nhu cầu về sửa chữa xây mới các công trình
xây dựng sẽ không ngừng tăng lên trong những năm sắp tới.
Theo dự báo về phát triển kinh tế của Việt Nam, giai đoạn 2001 -2005
tốc độ tăng GDP/ đầu người bình quân đạt 6 - 7%, có khả năng lên tới 7,5%
một năm và vốn đầu tư của toàn xã hội trong 5 năm sẽ là 57-60 tỷ USD.
Cùng với quá trình đó nhu cầu về nhà ở, cầu đường, nhà máy, văn phòng
làm việc... của cả nước trong giai đoạn này tăng từ 15 -20% và có thể lên tới
25% (theo tờ trình của Bộ xây dựng) và giai đoạn 2005- 2010 sẽ là khoảng
15% một năm.
Do đó đây là cơ hội tốt để các công ty xây dựng, trong đó có Công ty
Tây Hồ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng các
sản phẩm xây dựng hiện có cũng như xem xét việc mở rộng để đáp ứng
những nhu cầu này, Công ty Tây Hồ đã đề ra phương hướng phát triển và
80
đưa ra mức doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như mức lợi nhuận và thu
nhập của người lao động để công ty phấn đấu đạt được. Cụ thể như sau:
Doanh thu: 113.400 triệu đồng, tỷ lệ tăng trưởng 10%.
Nộp ngân sách đạt 8.556 triệu đồng
Lợi nhuận thực hiện : 1.265 triệu đồng.
Tiền lương bình quân người lao động :900.000/tháng.
Để thực hiện được các chỉ tiêu trên, công ty đã đề ra kế hoạch sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm được thể hiện thông qua bảng sau:
Chỉ tiêu
Sản phẩm quốc phòng
-Xây dựng nhà cửa
-Xây dựng công trình giao thông
-Hệ thống điện nước-Hạ tầng
-Sản phẩm khác
Sản phẩm kinh tế
-Xây dựng dân dụng
-Xây dựng công trình giao thông
-Hệ thống điện nước-Hạ tầng
-Sản phẩm khác
Năm trước
31.610
15.210
13.851
1.902
647
73.754
50.216
10.209
11.005
2.324
81
Năm nay
34.000
16.000
14.000
4.000
0
79.400
55.000
10.500
13.900
0
Trên đây là một số chỉ tiêu mà công ty Tây Hồ phấn đấu đạt được
trong năm 2002. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty về cơ bản là có
nhiều thuận lợi, tuy nhiên còn có một số khó khăn khách quan cũng như chủ
quan gây ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện thành công các chỉ tiêu trên.
Qua phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cho thấy trong năm vừa qua
vốn được sử dụng chưa thực sự đem lại lợi nhuận cao nhất, việc đầu tư vào
tài sản cố định và tài sản lưu động chưa hiệu quả. Một số chỉ tiêu tài chính
biến động theo chiều hướng bất lợi làm giảm sự lành mạnh tài chính của
công ty. Tình hình công nợ đang là một mối lo của công ty. Với mức nợ còn
tồn đọng trong khâu thanh toán cao như năm 2001 thì công ty sẽ phải rất khó
khăn trong việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh năm 2002 cũng như
tốn chi phí cho việc thu hồi nợ đọng. Hơn nữa, những khó khăn khách quan
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất của công ty trong năm
2002 này. Tính cạnh tranh trên thị trường xây dựng ngày càng tăng với sự
tham gia của nhiều công ty xây dựng ở trên tất cả các địa bàn. Tình hình
nguyên vật liệu biến động mạnh gây khó khăn cho việc dự toán giá thành
của công trình... Tất cả những khó khăn này đòi hỏi công ty phải có giải
pháp kịp thời để phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu tiếp tục duy trì tốt
hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Qua
thời gian thực tập được tìm hiểu về công ty cũng như tình hình tài chính tại
công ty, em xin mạnh dạn đưa ra những ý kiến nhằm giúp công ty khắc phục
những khó khăn, cải thiện tình hình tài chính của mình.
II - GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI
CÔNG TY TÂY HỒ
1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
82