1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Bảng 10- Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 109 trang )


8

9



Hiệu suất sử dụng

VCĐ (1)/(4) đơn vị

Đồng

Hiệu quả sử dụng VCĐ

(2)/(4) đơn vị Đồng



7,68



7,14



7,13



-7,03



-0,14



0,144



0,144



0,080



0,00



-44,44



Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố đ ịnh của doanh nghiệp ta không

chỉ căn cứ vào tính hiệu quả trong sử dụng vốn cố định mà còn phải đánh

giá năng lực hoạt động của tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phản ánh

hiệu quả sử dụng tài sản cố định như hiệu suất sử dụng tài sản cố định, sức sinh

lời của tài sản cố định ...

So với năm 1999, năm 2000 chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định

và sức sinh lợi của tài sản cố định đều tăng và do đó suất hao phí tài sản cố

định (bằng nghịch đảo của sức sinh lợi của tài sản cố định) giảm đi. Năm

1999 một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ tạo ra được 7,8 đồng doanh thu,

tương ứng tạo ra được 0,146 đồng lợi nhuận. Đến năm 2000 các con số

tương ứng là 8,32 đồng và 0,167 đồng. Suất hao phí TSCĐ giảm đi 6,25%

trong năm 2000 (để có một đồng doanh thu thuần cần 0,12 đồng nguyên giá

bình quân tài sản cố định). Đến năm 2001 thì có sự sụt giảm trong hiệu suất

sử dụng cũng như sức sinh lợi của TSCĐ, đồng thời kéo theo sự gia tăng

suất hao phí TSCĐ. Đặc biệt sức sinh lợi của TSCĐ giảm 47,3%, từ 0,167

giảm xuống còn 0,088, chứng tỏ trong năm 2001 nguyên giá bình quân tăng

mạnh trong khi lợi nhuận lại giảm đi. Điều này là dễ hiểu vì trong năm 2001

doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới làm nguyên giá bình

quân tăng lên 12,9% nên năng lực sản xuất của tài sản cố định tăng lên khiến

doanh thu tăng lên 6,3% so với năm 2000 nhưng sức sinh lợi của tài sản cố

định lại giảm xuống. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của đặc điểm sản xuất

ngành xây dựng với cơ chế đấu thầu hiện nay, bên A sau khi nghiệm thu

công trình bàn giao sẽ thanh toán cho công ty theo mức giá trong hồ sơ

63



thắng thầu như vậy, thường thì doanh thu cho mỗi công ty xây dựng đã được

xác định trước cho mỗi hợp đồng. Năm 2001, do công ty hoàn thành bàn

giao nhiều công trình nên doanh thu tăng lên 6,4% so với năm 2000 nhưng

do trong quá trình thi công đã phát sinh nhiều chi phí ngoài giá dự toán làm

cho tỷ lệ lãi định mức giảm xuống nên lợi nhuận không tăng lên tương ứng

với tốc độ tăng doanh thu, thậm chí lợi nhuận còn giảm đi so với năm 2000,

do số lợi nhuận tạo ra từ một đồng TSCĐ bình quân giảm xuống.

Về hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp: các chỉ tiêu hiệu

suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định đều giảm trong năm 2000 và 2001. Do

gia tăng nguyên giá tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn

khác làm vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu thuần và lợi

nhuận tăng chậm hơn nhiều.

Năm 2000 vốn cố định bình quân tăng lên 21,7 % trong khi doanh thu

thuần chỉ tăng 13,2 % làm hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm xuống còn

7,14 so với 7,68 của năm 1999 ( tương ứng giảm 7,03 % ). Tức là một đồng

vốn cố định bình quân thu về được 7,14 đồng doanh thu thuần. Hiệu quả sử

dụng vốn cố định không tăng do lợi nhuận trước thuế tăng nhanh bằng tốc

độ tăng của vốn cố định bình quân.

Năm 2001, hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm nhẹ song hiệu quả sử

dụng vốn cố định giảm rất lớn. Cứ một đồng vốn cố định bình quân tạo ra

được 0,8 đồng lợi nhuận, so với mức 0,144 đồng của năm 2000 và 1999 tỷ

suất này đã giảm tới 44 %.



64



Năm 2001, doanh nghiệp vẫn tiếp tục đầu tư đổi mới máy móc thiết

bị, nguyên giá bình quân tài sản cố định tăng lên 23,74% so với năm 2000

nhưng hiệu suất sử dụng tài sản cố định lại giảm xuống. Nguyên nhân chính

là do các máy móc thiết bị đầu tư mới chưa phát huy được năng lực sản xuất

trong khi vẫn tính khấu hao, mức khấu hao không phản ánh đúng thực tế

mức sử dụng máy móc thiết bị. Năm 2001, một số xe máy chưa sử dụng

nhưng vẫn tính khấu hao như trạm trộn Bê tông Asphan 100 tấn/ 1h từ tháng

8/01, máy rải VOLGEL Đức, tẹc poọc, xe tưới nhựa, lu lốp SAKAI, lu 3

bánh, ... với số tiền khấu hao là 1.893 triệu đồng (công ty sử dụng khấu hao

theo đường thẳng). Một số thiết bị có giá trị lớn có tỷ lệ khấu hao cao nhưng

không có việc để thi công như: máy ủi D65E, lu rung SV500, máy san

GDS11 - KOMATSU, máy xúc DAEWOO 100 SOLAR-200W là 498 triệu

đồng.



65



Do đó hiệu suất sử dụng tài sản cố định giảm đi. Tương tự như vậy

các năm 2000 và 2001 doanh nghiệp tăng các khoản đầu tư tài chính dài hạn

làm tăng vốn cố định bình quân trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng chậm.

Do đó khiến cho hiệu suất sử dụng và hiệu quả sử dụng của vốn cố định

giảm đi. Thực tế cho thấy, trong thời gian gần đây thị trường công việc có

phần chững lại các doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt để thắng thầu các

công trình, các doanh nghiệp tìm mọi cách để hạ giá thầu có khi chấp nhận

lỗ từ khi bỏ thầu. Ngoài ra, công ty phải vay ngân hàng để đầu tư máy móc

mà chưa đưa được vào sử dụng trong khi đó công ty vẫn phải trả lãi ngân

hàng. Máy móc thiết bị chưa phát huy được năng lực sản xuất mà phải trích

khấu hao lớn. Tất cả các yếu tố đó đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố

định của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong thời gian tới những máy móc thiết bị

mới đầu tư sẽ phát huy năng lực sản xuất, doanh nghiệp sẽ khai thác sử dụng

ở mức cao hơn tạo điều kiện nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng

như hiệu quả sử dụng vốn cố định.

Trên đây là những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn cố định của công

ty Tây Hồ. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp

một trong những hoạt động mà doanh nghiệp cần phải quan tâm đó là công

tác quản lý, bảo toàn vốn cố định và đầu tư đổi mới tài sản cố định của

doanh nghiệp.

2.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:



66



2.2.1 Cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp:

Vốn lưu động luôn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản của công ty.

Năm 1999 tài sản lưu động có giá trị là 59.610 triệu đồng, chiếm 84,3 %

tổng tài sản. Năm 2000 tài sản lưu động tăng nhẹ so với mức tăng nhanh của

tài sản cố định nên tỷ trọng tài sản lưu động giảm xuống còn 81,8 % tổng tài

sản. Năm 2001 công ty giá trị tài sản lưu động tăng mạnh cả về số tuyệt đối

và số tương đối khiến tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lên tới 85 % tổng tài

sản của đơn vị. Xu hướng này cho thấy nhu cầu về vốn lưu động của doanh

nghiệp để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đang gia tăng mạnh.

Tuy nhiên tỷ trọng tài sản lưu động cao như vậy có thể gây mất cân đối

trong cơ cấu tài sản, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của công ty.

Trong năm 2000, tiền và các khoản phải thu (trong đó các khoản phải

thu chiếm tỷ trọng lớn) tăng nhẹ trong khi tồn kho và tài sản lưu động khác

lại giảm mạnh khiến cho vốn lưu động của doanh nghiệp chỉ tăng 2,02 %.

Các khoản phải thu tăng lên chủ yếu là do tăng tiền khoản phải thu khách

hàng với mức tăng 24,99% tương ứng với 7.207 triệu đồng.

Các khoản tồn kho giảm trên dưới 30 % đặc biệt nguyên vật liệu tồn

kho giảm tới 64,81 %. Các khoản tài sản lưu động khác đều giảm mạnh (trừ

chi phí chờ kết chuyển tăng 22,43 %). Như vậy năm 2000 có sự gia tăng tỷ

trọng các khoản phải thu do đó doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều hơn

so với năm 1999. Điều này có thể có tác động tích cực trong chính sách bán

hàng của doanh nghiệp song có thể ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ .



67



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

×