Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 101 trang )
tương đang nảy mầm hàm lượng vitamin tăng lên nhiều, đặc biệt là vitamin C. Phân
tích thành phần sinh hoá cho thấy trong hạt đậu tương đang nảy mầm, ngoài hàm
lượng vitamin C cao, còn có các thành phần khác như: vitamin PP, và nhiều chất
khoáng khác như Ca, P, Fe v.v...Chính vì thành phần dinh dưỡng cao như vậy nên đậu
tương có khả năng cung cấp năng lượng khá cao khoảng 4700 cal/kg (Nguyễn Danh
Đông, 1982).
Hiện nay, từ hạt đậu tương người ta đã chế biến ra được trên 600 sản phẩm khác
nhau, trong đó có hơn 300 loại làm thực phẩm được chế biến bằng cả phương pháp cổ
truyền, thủ công và hiện đại dưới dạng tươi, khô và lên men vv... như làm giá, đậu
phụ, tương, xì dầu vv... đến các sản phẩm cao cấp khác như cà phê đậu tương, bánh
kẹo và thịt nhân tạo vv... Đậu tương còn là vị thuốc để chữa bệnh, đặc biệt là đậu
tương hạt đen, có tác dụng tốt cho tim, gan, thận, dạ dày và ruột. Đậu tương là thức ăn
tốt cho những người bị bệnh đái đường, thấp khớp, thần kinh suy nhược và suy dinh
dưỡng.
Giá trị về mặt công nghiệp
Đậu tương là nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp khác nhau như: chế biến
cao su nhân tạo, sơn, mực in, xà phòng, chất dẻo, tơ nhân tạo, chất đốt lỏng, dầu bôi
trơn trong ngành hàng không, nhưng chủ yếu đậu tương được dùng để ép dầu. Hiện
nay trên thế giới đậu tương là cây đứng đầu về cung cấp nguyên liệu cho ép dầu, dầu
đậu tương chiếm 50% tổng lượng dầu thực vật. Đặc điểm của dầu đậu tương: khô
chậm, chỉ số iốt cao : 120- 127 ; ngưng tụ ở nhiệt độ : - 15 đến - 18oC. Từ dầu này
người ta chế ra hàng trăm sản phẩm công nghiệp khác như: làm nến, xà phòng, ni lông
v.v...
Giá trị về mặt nông nghiệp
- Làm thức ăn cho gia súc: Đậu tương là nguồn thức ăn tốt cho gia súc 1 kg hạt
đậu tương đương với 1,38 đơn vị thức ăn chăn nuôi. Toàn cây đậu tương (thân, lá, quả,
hạt) có hàm lượng đạm khá cao cho nên các sản phẩm phụ như thân lá tươi có thể làm
thức ăn cho gia súc rất tốt, hoặc nghiền khô làm thức ăn tổng hợp của gia súc. Sản
phẩm phụ công nghiệp như khô dầu có thành phần dinh dưỡng khá cao: N: 6,2%,
P2O5: 0,7%, K2O: 2,4%, vì thế làm thức ăn cho gia súc rất tốt (Ngô Thế Dân và cs,
1999).
- Cải tạo đất: Đậu tương là cây luân canh cải tạo đất tốt. 1 ha trồng đậu tương
nếu sinh trưởng phát triển tốt để lại trong đất từ 30-60 kg N (Phạm Gia Thiều, 2000).
Trong hệ thống luân canh, nếu bố trí cây đậu tương vào cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ có
tác dụng tốt đối với cây trồng sau, góp phần tăng năng suất cả hệ thống cây trồng mà
giảm chi phí cho việc bón N. Thân lá đậu tương dùng bón ruộng thay phân hữu cơ rất
tốt bởi hàm lượng N trong thân chiếm 0,05%, trong lá: 0,19% (Nguyễn Danh Đông,
1982).
2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ĐẬU TƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG
NƯỚC
2.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Đậu tương là cây trồng lấy hạt, cây có dầu quan trọng bậc nhất trên thế giới,
đứng hàng thứ 4 sau cây lúa mì, lúa nước và ngô. Do khả năng thích ứng rộng nên nó
đã được trồng ở khắp năm châu lục, nhưng tập trung nhiều nhất ở châu Mỹ trên 70%,
tiếp đến là châu Á. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới trong những năm gần
đây được thê hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1.1 : Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới từ năm 2001 đến 2005
Diện tích
(triệu ha)
2001
76,077
2002
79,167
2003
83,600
2004
91,440
2005
91,386
(Nguồn: FAOSTAT Database, 2006).
Năm
Năng suất
(tạ/ha)
23,20
22,73
23,40
22,34
23,00
Sản lượng
(triệu tấn)
176,761
108,907
188,929
204,266
209,532
Số liệu ở bảng 1.1 cho thấy diện tích gieo trồng và sản lượng đậu tương trên thế
giới tăng rất nhanh trong vòng 5 năm qua. Hàng năm trên thế giới trồng khoảng hơn
91 triệu ha với nang suất bình quân khá cao 22-23 tạ!ha đã tạo ra một sản lượng đậu
tương gấp hơn 2 lần so với 20 năm về trước. Các nước trồng đậu tương đứng hàng đầu
trên thế giới về diện tích gieo trồng và sản lượng là Mỹ, Braxin, Achentina và Trung
Quốc (bảng l.2)
Bảng l.2: Tình hình sản xuất đậu tương của 4 nước đứng đầu trên thế giới
trong những năm gần đây
Năm 2003
Năng
Sản
Nước Diện tích suất lượng
(triệu ha) (tạ/ha) (triệu
tấn)
Mỹ
29,33 22,77 66,77
Braxin
18,52 28,08 52,02
Achentina
12,4
28,0 34,88
Trung
9,32
16,53 1 5,39
Năm 2004
Diện Năng Sản
tích
suất lượng
(triệu (tạ/ha) (triệu
ha)
tấn)
29,93 28,6 85,740
21,52 23,14 49,793
14,3 22,0 31,500
9,70 18,14 17,600
Năm 2005
Diện Năng Sản
tích
suất lượng
(triệu (tạ/ha) (triệu
ha)
tấn)
28,84 28,72 82,82
22,89 21,92 50,1
14,03 27,28 33,30
9,500 17,79 16,90
(Nguồn: FAOSTAT Database, 2006).
2.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở trong nước
Một số tài liệu cho rằng cây đậu tương được đưa vào trồng nước ta từ thời vua
Hùng và xác định rằng nhân dân ta trồng cây đậu tương trước cây đậu xanh và cây đậu
đen (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Ngày nay đậu tương đã trở nên quen thuộc với nhân
dân ta. Các món ăn chế từ đậu tương trở thành những món ăn phổ biến thường ngày.
Tuy nhiên đậu tương trồng ở nước ta chủ yếu là sử dụng làm thực phẩm mang tính tự
cung tự cấp.
Trong những năm gần đây, cây đậu tương đã phát triển khá nhanh cả về diện tích
và năng suất góp phần tạo ra mặt hàng tiêu dùng nội địa quan trọng. Tình hình sản
xuất đậu tương trong nước mấy năm gần đây được trình bày trong bảng 1.3.
Bảng 1.3: Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam trong những năm gần
đây (2001-2005)
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
146,3
140,3
166,5
190,0
185,0
12,36
12,56
13,50
12,63
13,24
176,3
176,3
225,3
240,0
245,0
(Nguồn: FAOSTAT Database, 2006)
Về mặt diện tích: Diện tích gieo trồng đậu tương của nước ta mới chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng diện tích gieo trồng (khoảng l,5-l,6%). Xét về tốc độ thì tăng rất nhanh nếu
lấy năm 1980 làm mốc thì đến năm 2004 diện tích đã tăng gấp 3,6 lần.
Về năng suất: Năng suất đậu tương bình quân của nước ta rất thấp chỉ đạt khoảng
trên 50% so với năng suất bình quân trên thế giới. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực rất lớn
của các nhà khoa học trong công tác nghiên cứu chọn tạo giống và các biện pháp canh
tác, năng suất đậu tương trong 5 năm gần đây đã có một bước nhảy vọt quân trọng,
năng suất tăng 1,8 lần so với năm 1980 (Trần Đình Long và Andrew, 2001).
Hiện nay, cả nước đã hình thành 6 vùng sản xuất đậu tương: vùng Đông Nam bộ
có diện tích lớn nhất (26,2% diện tích đậu tương cả nước), miền núi Bắc bộ 24,7%,
đồng bằng sông Hồng 17,5%, đồng bằng sông Cửu Long 12,4% (Ngô Thế Dân và cs,
1999). Tổng diện tích 4 vùng này chiếm 80% diện tích trồng đậu tương cả nước, còn
lại là đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên.
Đậu tương được trồng ở vụ xuân chiếm 14,2% diện tích, vụ hè là 2,68%, vụ hè
thu 31,3%, vụ thu đông 22,1% và vụ đông xuân 29,7% (Ngô Thế Dân và cs, 1999).
Tuỳ theo điều kiện sinh thái của từng vùng mà đậu tương được gieo trồng trong
các vụ chính khác nhau. Ví dụ ở các tỉnh miền núi phía Bắc đậu tương được gieo trồng
chính trong vụ hè thu, những năm gần đây đậu tương cũng được phát triển mạnh trong
vụ xuân.
Về sản lượng, vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ và đồng bằng sông
Cửu Long chiếm hơn 60% sản lượng đậu tương cả nước. Đặc biệt vùng Đồng bằng
sông Cửu Long chỉ chiếm khoảng 12% diện tích nhưng năng suất bình quân cao nhất
cả nước đạt trên 20 tạ/ha (Ngô Thế Dân và cs, 1999).
Hiện nay cùng với nhịp độ tăng dân số và việc thay đổi tập quán tiêu dùng dầu
thực vật thay mỡ động vật, thì nhu cầu dầu thực vật đặc biệt là dầu đậu tương sẽ tăng
lên, như vậy sẽ tạo ra một cơ hội rất lớn cho việc phát triển sản xuất đậu tương trong
nước.
3. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI
3.1. Nguồn gốc
Đậu tương là một trong những loại cây trồng mà loài người đã biết sử dụng và
trồng trọt từ lâu đời, vì vậy nguồn gốc của cây đậu tương cũng sớm được xác minh.
Những bằng chứng về lịch sử, địa lý và khảo cổ học đều công nhận rằng đậu tương có
nguyên sản ở châu Á và có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cây đậu tương được thuần hoá
ở Trung Quốc qua nhiều triều đại tiền phong kiến và được đưa vào trồng trọt và khảo
sát có thể trong triều đại Shang (năm 1700-1100 B.C) trước công nguyên. Những
thông tin về nguồn gốc đậu tương được trình bày chi tiết trong tài liệu của trong Ngô
Thế Dân và cs (1999).
3.2. Phân loại
Đậu tương thuộc chi Glycine, họ đậu Leguminosae, họ phụ cánh bướm
Papilionoideae và bộ Phaseoleae. Đậu tương có tên khoa học là Glycine Max (L)
Merr.
Do xuất phát từ những yêu cầu, căn cứ và tiêu chí phân loại khác nhau nên cũng
có nhiều cách phân loại khác nhau. Nhưng đến nay, hệ thống phân loại căn cứ vào đặc
điểm về hình thái, phân bố địa lý và số lượng nhiễm sắc thể được nhiều người sử dụng.
Hệ thống phân loại căn cứ vào đặc điểm về hình thái, sự phân bố địa lý và số
lượng nhiễm sắc thể do Hymowit và Newell (1984) xây dựng. Theo hệ thống này
ngoài chi Glycine còn có thêm chi phụ Soja. Chi Glycine được chia ra thành 7 loài
hoang dại lâu năm, và chi phụ Soja được chia ra làm 2 loài: loài đậu tương trồng
Gtycine (L) Merr và loài hoang dại hàng năm G. Soja Sieb và Zucc (bảng 1.4).
Bảng l.4: Đặc điểm hình thái số lượng nhiễm sắc thể và phân bố của các loài
trong chi Glyncine và chi phụ Soja
NST
(2n)
Đặc tính hình thái
Phân bổ
40
3 lá kép nhỏ hình ô van dài. gân hình mạng. hoa
có màu sắc từ hổng đến tím hồng. Quả ngắn
hình thuôn thẳng hoặc cong, ít hạt màu nâu
sáng hoặc đen. Thân mảnh leo nhiều lông nhỏ.
Úc
40
Thân có thể bò sát mặt đất hoặc thẳng, lông
cứng. Chùm hoa dài mập với màu sắc từ trắng
đến màu hoa cà nhạt. Quả cong rộng bản có
nhiều lông cứng. Hạt hình thuôn hoặc ô van.
Úc
Glycine latifolia
(Benth). Newell và
Hymowitz
40
Thân khoẻ bò sát hoặc đôi khi leo. Phiến lá
rộng có răng cưa chùm hoa dải, mảnh màu tím.
Quả ngắn, nhiều lông tơ hoặc cứng
Úc
Glycine tatrobeana
(Meissn.) Benth
40
Là loại thân nhỏ cứng. bò sát đất đòi khi leo.
Phiến lá hình bán cầu. Hoa to
Úc
40
Là loại leo. phiến lá nhỏ dài. gân lá có gai. Thân
có lông hơi cứng màu trắng ) xám. Hoa màu
hồng có mùi thơm, quả thẳng. Hạt hình chữ
nhật đôi khi bẹt.
Úc
Loài
Chi Glycine
Glycine clandestina
wendl
Glycine falcata
Benth
Glycine canescens
F.J.Ham
Glycine tabacina
thân bò hoặc leo. Lá có hình ô van bản hẹp có Úc, Trung
răng cưa.
Quốc, Đài
40; 80 Chùm hoa kéo dài màu tím đậm có mùi thơm. Loan, Đảo
Quả cứng dài. hạt màu nâu hoặc đen hình trứng. Nam Thái
Bình Dương
Thân bò hoặc leo có nhiều lông tơ. Lá có hình ô Úc Trung
Glycine tomentella
Hyayata
van có gai nhỏ. Cuống hoa ngắn. hoa tập trung Quốc, Đài
38; 40; nhiều về phía ngọn có màu từ tím nhạt đến tím
Loan.
78; 80 đậm. Quả thăng cứng có vết lõm giữa các hạt. Philippine và
Hạt có màu nâu hoặc đen
New Guinea
Chi phụ Soja
Glycine sojá Sieb và
Zucc
40
Glycíne max (L.)
Merr
40
Thân bò hoặc leo. Lá chét có lông cứng màu Trung Quốc,
nâu hình ô van dài. Hoa màu tím. đôi khi có Nga. Triều
màu trắng. Quả ngắn nhiều lông cứng. Hạt hình
Tiên.
ô van dài
Nhật Bản,
Đài Loan
Là loại trồng hàng năm. Thân cây thẳng. ít phân
cành, dạng bụi. Xẻ lá chét lông chim, phiến lá
hình ô van hay cập. Chùm hoa cuống ngắn màu
Trung Quốc
tím hoặc trắng. Quả thắng hoặc cong nhiều
lông. Mỗi quả.có 1-3 hạt hình tròn hay bầu dục.
Vỏ hạt có màu biến đổi từ vàng sáng đến nâu,
Chương II
ĐẶC TÍNH SINH VẬT HỌC CỦA CÂY ĐẬU TƯƠNG
1. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC
1.1. Rễ
Rễ cây đậu tương khác với rễ cây hoà thảo là có rễ chính và rễ phụ. Rễ chính có
thể ăn sâu 30-50cm và có thể trên 1m. Trên rễ chính mọc ra nhiều rễ phụ, rễ phụ cấp 2,
cấp 3 tập trung nhiều ở tầng đất 7-8 cm rộng 30-40 cm2 (Nguyễn Danh Đông, 1982).
Trên rễ chính và rễ phụ có nhiều nốt sần. Bộ rễ phân bố nông sâu, rộng hẹp, số lượng
nốt sần ít hay nhiều phụ thuộc vào giống, đất đai, khí hậu và kỹ thuật trồng.
Quá trình phát triển của bộ rễ có thể phân ra làm 2 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: Phát triển lớp rễ đầu tiên, thời kỳ này rễ cái và rễ phụ đầu tiên
phát triển mạnh kéo dài ra và sinh nhiều rễ con. Thời kỳ này thường kéo dài từ 30-40
ngày sau mọc.
Thời kỳ thứ hai: Lớp rễ đầu tiên phát triển chậm dần, rễ con không nhú ra nữa
thậm chí có một số rễ con khô đi. Lúc này gốc thân gần cổ rễ các rễ phụ nhỏ kéo dài ra
và phát triển cho tới khi gần thu hoạch. Số lượng có thể 30-40 rễ phụ ăn ở phía gần
mặt đất. Lớp rễ này có nhiệm vụ cung cấp đấy đủ chất dinh dưỡng cho sự phát triển
của thân, lá và làm quả. Trong kỹ thuật trồng nên chú ý thời kỳ này, cần vun đất sao
cho lớp rễ này phát triển mạnh.
Một đặc điểm hết sức quan trọng cần lưu ý là trên bộ rễ của cây đậu tương có rất
nhiều nốt sần. Đó là các u bướu nhỏ bám vào các rễ. Nốt sần là kết quả cộng sinh của
một số loại vi sinh vật có tên khoa học là Rhizobium Japonicum với rễ cây đậu tương.
Trong một nốt sần có khoảng 3-4 tỷ vi sinh vật, mà ta chỉ có thể nhìn thấy chúng qua
kính hiển vi phóng đại 600 - 1000 lần (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Vi sinh vật thường
có dạng hình cầu hoặc hình que.
* Đặc điểm của nốt sần
Nốt sần ở rễ đậu tương thường tập trung ở tầng đất 0-20cm, từ 20-30cm nốt sần ít
dần và nếu sâu hơn nữa thì có ít hoặc không có.
Nốt sần đóng vai trò chính trong quá trình cố định đạm khí trời cung cấp cho cây.
Lượng đạm cung cấp cho cây khá lớn khoảng 30-60 kg/ha (Nguyễn Danh Đông,
1982).
Nốt sần có thể dài lcm, đường kính 5-6 mm, mới hình thành có màu trắng sữa,
khi tốt nhất có màu hồng (màu globulin có cấu tạo gần giống Hemoglobin trong máu
có Fe).
* Quá trình hình thành của nốt sần
Trong đất luôn luôn có nhiều loại vi sinh vật thường tập trung xung quanh bộ rễ
(để sử dụng các chất thải ra làm thức ăn), mặt khác xung quanh rễ do canh tác tạo điều
kiện đất đai thuận lợi cho vi sinh vật phát triển. Có loại cộng sinh, có loại hoại sinh, ký
sinh trong đó có loại có lợi có loại có hại với rễ. Cây họ đậu đều tiết ra các chất như
gluxit, đường galacto v.v.. đã hấp dẫn các loại vi sinh vật trong đó có vi sinh vật nốt
sần. Có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình xâm nhập của vi sinh vật nốt sần vào
rễ cây họ đậu.
Có quan điểm cho rằng khi sống vi khuẩn Rhirobium Japonicum tiết ra chất axit
andol 3 axêtic. Khi vi khuẩn tiếp xúc với lông hút dưới tác dụng của axit làm cho điểm
đó trên lông hút khô cong lên, tạo nên khe hở làm cho vi sinh vật đi sâu vào lông hút.
Quan điểm khác lại cho rằng vi sinh vật tiết ra men xelluoza phân huỷ tế bào
lông hút để đi vào lông hút. Khi đi vào đầu lông hút vi sinh vật tiết ra chất nhầy, từ tổ
chức biểu bì của đầu lông hút tạo thành tuyến xâm nhập hình dải. Sau một thời gian
xâm nhập vào tế bào biểu bì, vào nội bì và sinh sản tại đó. Vi khuẩn chiết ra chất kích
thích làm cho tế bào phân chia không bình thường và hình thành nốt sần.
Nốt sần phát triển đến một giai đoạn nhất định thì cố định đạm. Bản thân nốt sần
hút N còn vi sinh vật như một chất xúc tác. Khi cây già vi sinh vật đi ra ngoài. Quá
trình hình thành nốt sần kéo dài 16-21 ngày. Trường hợp bình thường nốt sần bắt đầu
xuất hiện sau mọc 14-15 ngày, phát triển nhiều và mạnh nhất vào lúc đậu tương ra hoa
và làm quả tập trung nhiều nhất ở lớp rễ thứ nhất.
Số lượng nốt sần nhiều hay ừ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện đất trồng, các
chất dinh dưỡng đối với đậu tương. Trồng đậu tương trên đất đã trồng đậu tương, thì
nốt sần hình thành sớm hơn và nhiều hơn. Đất chua quá hoặc kiềm quá nốt sần hình
thành kém. pH thích hợp cho sự hình thành của nốt sần là 6-7, vì vậy việc lựa chọn đất
trồng đậu tương thích hợp rất quan trọng. Điều kiện dinh dưỡng cũng ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển của nốt sần. Nhìn chung bón đầy đủ NPK thì nốt sần phát triển
mạnh, bón P2O5 Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nốt sần, còn hiệu quả kali
không rõ lắm (Trần Văn Điền, 2001). Bón đạm không thích hợp ức chế sự hình thành
và phát triển của nốt sần.
Quan hệ giữa vi sinh vật nốt sần với cây đậu tương là mối quan hệ cộng sinh: cây
cung cấp chất dinh dưỡng cho vi khuẩn hoạt động, ngược lại vi khuẩn lại tổng hợp nitơ
tự do của không khí chuyển sang dạng đạm hữu cơ cây có thể sử dụng được. Cây đậu
tương cung cấp càng nhiều chất dinh dưỡng cho vi sinh vật hoạt động thì vi sinh vật
càng phát triển và tích luỹ đạm được càng nhiều cho cây làm cho cây sinh trưởng và
phát triển tốt.