Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 101 trang )
3.3. Tính chịu đựng và khả năng phục hồi
Cho dù đặc tính giảm sự mất nước của cây tốt đến đâu chăng nữa, cây vẫn bị tổn
thương hoặc chết do khô hạn kéo dài. Có rất ít thông tin về khả năng phục hồi của cây
đậu tương sau khi bị mất nước nặng. Cây bị lạnh trong thời gian ra hoa, thì hầu hết
những hoa ra trong thời kỳ đó bị rụng và sau đó vài tuần cây có thể ra hoa và đậu quả
nếu thời tiết ấm. Thiếu nước trong giai đoạn ra hoa sẽ làm giảm thời gian ra hoa. Thiếu
nước trong giai đoạn làm quả sẽ ảnh hưởng tới năng suất nhiều hơn so với thiếu nước
trong giai đoạn ra hoa. Qua các nghiên cứu người ta có thể dự đoán được giai đoạn nào
cây bị ảnh hưởng nhiều do bất lợi (khô hạn, lạnh...). Tuy nhiên, bởi vì người ta khó có
thể dự đoán khi nào bất lợi xảy ra, cho nên người nông dân khó có thể ứng dụng được
những kết quả nghiên cứu đó nếu như điều kiện tưới không có. Tốt nhất, nên chọn
giống có thời gian ra hoa dài và có khả năng phục hồi tốt sau khi bị hạn hoặc bị lạnh.
3.4. Kết quả nghiên cứu giống chống chịu điều kiện bất lợi
Một điều quan trọng cần đề cập đến trong chương trình chọn giống chống chịu
điều kiện bất lợi, là những giống có năng suất cao ở điều kiện khi bất lợi hoặc không
có bất lợi xảy ra. Đặc tính này gọi là tính ổn định kiểu hình của giống.
Quan điểm về khả năng của một giống cho năng suất tương đối cao ở cả điều có
và không có sự bất lợi có những điểm khác nhau. Nhiều nghiên cứu cho rằng có sự
tương quan không thể tránh được giữa khả năng quang hợp nhanh khi độ ẩm đất thuận
lợi và khả năng không hút được nước khi đất bị khô và ngược lại. Họ dựa trên cơ sở là
dạng lá chịu hạn không thể có cường độ quang hợp cao ở điều kiện thuận lợi, nhưng ở
điều kiện bất lợi có cường độ quang hợp cao hơn những cây bình thường. Tuy nhiên,
một số cây lấy gỗ với dạng lá chịu hạn có cường độ bốc hơi cao, nó cũng có cường độ
quang hợp cao.
Tính ổn định kiểu hình về năng suất vẫn còn nhiều tranh luận. Lá dày của những
cây bị hạn, sau khi không còn sự bất lợi có cường độ quang hợp cao hơn nhưng lá
mỏng của cây không bị hạn. Những cây đậu tương được chọn lọc theo hướng sinh
trưởng tốt và có cường độ quang hợp cao khi bị hạn, khi trồng chúng trong điều kiện
đất ướt thì có cường độ quang hợp thấp và tích luỹ chất khô ít hơn so với cây không có
tính chịu hạn. Kết quả nghiên cứu những giống có tính chịu dựng điều kiện bất lợi ở
môi trường không có bất lợi, có vai trò quan trọng trong chương trình chọn giống
chống chịu điều kiện bất lợi. Hiện nay thường có ba phương pháp chọn giống chống
chịu. Phương pháp thứ nhất là chọn một số giống có khả năng cho năng suất cao ở cả
điều kiện có và không có nhân tố bất lợi. Phương pháp này thường được sử dụng rộng
rãi nhất. Phương pháp thứ hai là chọn giống cho năng suất cao ở điều kiện bất lợi và
không đề cập đến khả năng tối đa của nó. Phương pháp thứ ba là giả thiết năng suất và
tính chống chịu điều kiện bất lợi là hai đặc tính di truyền riêng rẽ, ta chọn giống năng
suất cao kết hợp với tính chống chịu điều kiên bất lợi.
3.5. Những nghiên cứu khắc phục yếu tố bất lợi
Mục đích cuối cùng của nghiên cứu là tìm ra con đường để tăng hiệu quả của sản
xuất cây trồng. Nhà chọn giống đã cung cấp cho người nông dân những giống đậu
tương với những đặc tính sinh lý, hình thái có tiềm năng năng suất cao. Nhưng toàn bộ
tiềm năng năng suất ít khi đạt được bởi các yếu tố bất lợi do môi trường gây ra.
Như vậy điều cần thiết đầu tiên của người nông dân là các giống cho năng suất
cao ở điều kiện thuận lợi và chỉ giảm ít khi điều kiện bất lợi xảy ra. Nghiên cứu để cải
tiến năng suất một mặt nên dựa vào tính chất và thời gian xuất hiện yếu tố bất lợi, một
mặt dựa trên sự hiểu biết những quá trình sinh lý, hình thái cây giảm năng suất như thế
nào. Những vấn đề này cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nông học, thổ nhưỡng học,
khí hậu học và sinh lý học để cung cấp thông tin cần thiết cho nhà chọn giống.
3.5.1. Chịu đựng và tránh các yếu tố bất lợi
Một khi yếu tố bất lợi đã được xác định là nguyên nhân chính hạn chế việc duy
trì tiềm năng sinh lý của một giống, thì nhà nông học và chọn giống có thể dùng một
trong hai phương pháp sau để đảm bảo tránh hoặc hạn chế thiệt hại. Con đường thứ
nhất là chọn giống chịu được và thứ hai là tránh yếu tố bất lợi. Ở những vùng có mùa
khô, mùa mưa rõ ràng thì có thể xác định thời điểm gieo trồng để tránh thiệt hại do
hạn. Nhưng ở những vùng mà khô hạn xảy ra thường xuyên nên chọn giống có tính
chịu đựng cao.
Đôi khi yếu tố bất lợi có thể loại đi được. Thiếu nước có thể loại bỏ bằng tưới
tiêu. Cỏ có thể trừ bằng biện pháp chăm sóc hoặc dùng thuốc trừ cỏ. Một số sâu bệnh
có thể ngăn ngừa bằng phun thuốc. Nhưng phải tính đến hiệu quả kinh tế của việc
dùng các biện pháp này để xử lý.
3.5.2. Biên động di truyền về phản ứng với yếu tố bất lợi
Ở đậu tương có những biến động di truyền cho nhiều đặc tính khác nhau, chẳng
hạn như độ sâu và mật độ rễ, tập tính sinh trưởng hữu hạn và vô hạn, thời gian sinh
trưởng, độ nhạy cảm với quang chu kỳ, tính chịu đựng nhiệt độ thấp, khả năng đâm
sâu vào tầng đất cứng, khả năng chịu độc Al, Mn, chịu sự mất nước và ra hoa sau khi
bị hạn nặng. Người ta thấy rằng, mức độ biến động di truyền của những đặc tính này
đủ để những nhà chọn giống có thể chọn ra được những giống có tính chống chịu cao,
đối với hầu hết các yếu tố bất lợi làm giảm năng suất. Vấn đề xác định đặc tính nào
của cây trồng là quan trọng nhất, có liên quan tới khả năng chống chịu và năng suất, và
tìm ra phương pháp để lựa chọn chúng.
Nếu những biến dị di truyền của một đặc tính nào đó có tồn tại trong vật liệu
khởi đầu, việc tạo ra giống chống chịu không có gì khó khăn. Tuy nhiên, khi một yếu
tố bất lợi như khô hạn hoặc chịu lạnh, nó liên quan đến nhiều đặc tính quyết định khả
năng chống chịu của cây như: rễ sâu, phân cành nhiều, chín sớm, điều chỉnh khí khổng
tốt, chịu mất nước, hoặc sinh trưởng tốt sau khi bị hạn. Nhà nông học và sinh lý học
phải xác định cho nhà chọn giống yếu tố nào quan trọng nhất đối với điều kiện khí hậu
đất đai của từng vùng.
Từ cuối những năm 1960, công nghệ sinh học đã mở ra một hướng mới để tăng
tính chống chịu yếu tố bất lợi của cây trồng bằng cấy chuyển gen từ nguồn này sang
nguồn khác Mặc dù việc tách và chuyển gen có khó khăn đối với cây lấy hạt, nhưng nó
được coi là phương pháp có tiềm năng để tạo ra các giống chống chịu yếu tố bất lợi.
Tuy nhiên việc thực hiện phương pháp này còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị và khả năng của các nhà nông học, sinh lý học xác định cơ chế tính
chống chịu tìm ra những kỹ thuật sàng lọc phù hợp.
3.5.3. Kỹ thuật chọn lọc giống
Một trong những vấn đề khó khăn của tạo giống có tính chống chịu cao dựa trên
những đặc tính đặc biệt là tìm ra phương pháp chọn lọc một khối lượng vật liệu lớn về
đặc tính đó. Sàng lọc có thể chỉ yêu cầu đo đếm đơn thuần toàn bộ bộ rễ ở điều kiện
bất lợi tự nhiên và nhân tạo. Xác định các quá trình sinh lý chẳng hạn như quang hợp,
đo trạng thái nước của các cơ quan đặc biệt như lá, ngọn, thân, nhận xét những biến
đổi xảy ra ở trong tế bào. Đôi khi việc đo đếm chi tiết các chỉ tiêu tốn nhiều thời gian
và chỉ có thể tiến hành với quần thể nhỏ.
Có quan điểm cho rằng có cường độ quang hợp cao thì cho năng suất cao, nhưng
nhiều nghiên cứu chứng minh vấn đề này không nhất thiết phải như vậy. Tương quan
giữa quang hợp và tích luỹ chất khô phụ thuộc vào tổng diện tích lá, thời gian diện tích
lá có cường độ quang hợp cao cũng như hiệu suất quang hợp. Năng suất sinh học ở
đậu tương thường liên quan đến quang hợp, quang hợp lại liên quan tới chỉ số diện tích
lá (LAI), sự phát triển của lá và nhanh khép kín tán cây. Tuy nhiên, tăng năng suất hạt
không thể do tăng hiệu suất quang hợp nếu độ lớn, kích thước của cơ quan tiêu thụ
(sức chứa) không tăng. Như vậy, chọn giống có hiệu suất quang hợp, chưa chắc đã dẫn
đến năng suất cao.
Chương IV
KỸ THUẬT TRỒNG TRỌT
1. GIỐNG ĐẬU TƯƠNG
1.1. Khả năng thích ứng
Trong những năm qua, giống mới đã góp phần quan trọng đẩy mạnh nâng cao
năng suất đậu tương. Để tạo được giống có khả năng thích ứng rộng, các nhà chọn
giống luôn chú ý đến các đặc tính như khả năng chống chịu sâu bệnh, chống đổ, chống
tách hạt và năng suất cao. Một xu hướng nữa là chọn giống thích nghi với một điều
kiện nhất định nào đó như chọn giống chịu lạnh cho vụ đông và đông xuân ở miền Bắc
và chọn giống chịu nóng cho vụ hè của miền Bắc và các vùng trồng đậu tương ở miền
Nam (Trần Đình Long và Andrew, 2001). Do vậy khi cần hiểu rõ đặc tính của giống
trước khi giới thiệu cho từng vùng và từng vụ cụ thể.
1.2. Thời gian sinh trưởng
Thời gian sinh trưởng của các giống đậu tương do đặc tính di truyền quyết định.
Tuy nhiên thời gian sinh trưởng của đậu tương bị ảnh hưởng bởi thời gian chiếu sáng
và nhiệt độ Chính vì vậy, nói đến thời gian sinh trưởng của một giống phải gắn với
một vùng và một vụ nhất định. Căn cứ vào thời gian sinh trưởng người ta phân ra làm
6 nhóm:
- Nhóm chín rất sớm:
< 90 ngày
-Nhóm chín sớm:
90-100 ngày
- Nhóm chín trung bình:
100-110 ngày
- Nhóm chín muộn trung bình:
110-120 ngày
- Nhóm chín muộn:
120-140 ngày
- Nhóm rất muộn:
>140 ngày
1.3. Giống đậu tương cho các vùng sinh thái
Hiện nay mỗi một vùng sinh thái có một bộ giống địa phương khác nhau. Các
giống địa phương đã tồn tại và được gieo trồng từ lâu đời, nên thường có ưu điểm là
tính chống chịu rất tốt và thường là có chất lượng cao. Các giống nhập nội hay mới
chọn tạo gần đây cũng thể hiện rất nhiều ưu điểm cả về năng suất và tính thích ứng với
từng vùng. Mỗi vùng có một bộ giống thích hợp:
- Các tỉnh miền núi phía Bắc: Các giống thích hợp là: Vàng Mường Khương,
Vàng Cao Bằng, Vàng Hoà An, Vàng Mộc Châu, Bạch Hoà Thảo, Cúc Lục Ngạn,
Vàng Hà Giang, Xanh Tiên Đài, Đen Bắc Hà, Vàng Phú Nhung, Xanh Tiên Yên, Cúc
Chí Linh, ĐT76 (ĐH4), DT84, Ml03, ĐT80,VX-93.
Vùng Đồng bằng Sông Hồng: Các giống thích hợp là: Ngọc Động, Thanh Oai,
Ninh Tập, Nâu Thường Tín, Lơ 75, Cúc Hà Bắc, AK02, AK03, AK05, Ml03,
VX92,VX93; ĐT93 và DT84 (Trương Đích, 1999; Lê Song Dự và cs, 1998; Trần
Đình Long, 1992; Trần Đình Long và Đoàn Thị Thanh Nhàn, 1994)
Vùng Bắc Trung Bộ: Cúc Nam Đàn, Cúc Thọ Xuân và AK03.
Vùng Nam Trung Bộ: Đậu nành Ninh Sơn, Ba tháng Anh Hiệp, Đậu nành Xuân
Quang, Hồng Ngự, Nhơn Khánh, Diễn Phước, Ninh Hoa.
Vùng Cao Nguyên: Đậu sẻ Kon Tum, Hạt to Chư sê, Ba Tháng Azunpa, Hạt to
Azunpa, Ba tháng Chưgar, Sẻ yachim, Hạt to Liên Nghĩa và ĐT7.
Vùng Đông Nam Bộ: HL-2, HL-92, G-87-5, Đậu nành Tân Uyên, Đậu nành Đầu
dây, G97- 1 1 , G97- 1 2 và G97- 1 3 .
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: ĐT76, MTĐ-22, MTĐ-65, MTĐ-120, MTĐ176, MTĐ-455, Nam Vang và ô Môn 3.
Bảng 4.1 : Đặc tính của một số giông đậu tương gieo trồng phổ biên ở các tỉnh phía Bắc
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Đặc điểm
TGST: 80-90 ngày. hạt màu vàngl pi00 hạt từ 18-22g. Năng suất. 15ĐH4 (ĐT76)
25tạ/ha.
TGST: 85-95 ngày, hạt vàng. P100 hạt từ 15-16 g. Năng suất 15-25 tạ/ha.
DT84
Thích hợp cho vụ xuân và hè
TGST: 75-85 ngày, hạt vàng nhạt, Pi00 hạt từ 10-12 g. Năng suất 10-15
AK02
tạ/ha.
TGST: 80-85 ngày, hạt vàng. P100 hạt lừ 12-13 g. Năng suất: 13-16 tạ/ha.
AK03
Thích hợp vụ xuân, hè và đông
TGST: 90-95 ngày, hạt màu vàng, P100 hạt từ 14-15g. Năng suất.16-20
VX 93
tạ/ha.
TGST:85-95 ngày. hạt màu vàng. P100 hạt từ 14-15 g. Năng suất 18-25
VX 92
tạ/ha.
TGST: 95-105 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 14-15 g. Năng suất: 15-25 tạ/ha.
ĐT80
Thích hợp vụ hè và xuân muộn
TGST: 85-90 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 16-18 g. Năng suất: 17-25 tạ/ha.
M103
Thích hợp cho vụ hè, xuân muộn và thu đông
ĐT2000 TGST: 100 - 110 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 16-17 g. Năng suất: 16-25
tạ/ha.
TGST: 75-85 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 16-17g. Năng suất: 15-25 tạ tha.
ĐVN-5
Thích hợp vụ xuân, hè và thu đông.
TGST: 95-100 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 16-18 g. Năng suất: 15-25 tạ/ha.
DT90
Thích hợp vụ xuân, hè và đông.
TGST: 95-100 ngày. hạt vàng, P100 hạt từ 15-16 g. Năng suất: 15-25 tạ/ha.
DT96
Thích hợp vụ xuân, hè và đông.
TGST: 70-80 ngày, hạt vàng, P100 hạt từ 12-14 g. Năng suất: 13-18 tạ/ha.
DT99
Thích hợp vụ xuân hè và đông.
Tên giống
Nguồn: Trần Đình Long và cs, 2005; Mai Quang Vinh và cs, 2005 và Nguyễn
Văn Viết và cs, 2002, Chương trình ASPS, 2005.
2. CHẾ ĐỘ CANH TÁC
2.1. Luân canh
Cây đậu tương trồng liên tiếp không có lợi vì:
+ Rễ cây đậu tương thường tiết ra một loại axít không có lợi cho rễ và vi sinh vật
phát triển.
+ Mất cân đối về dinh dưỡng trong đất, thường lân bị hút nhiều, nên dẫn tới tình
trạng không khôi phục kịp thời và đầy đủ cho cây sử dụng.
+ Tàn dư sâu bệnh được lan truyền từ vụ này sang vụ khác.
Cho nên đậu tương thường được trồng luân canh với cây trồng khác và có lợi rất
nhiều mặt.
+ Rễ có nốt sần cố định được đạm không những cung cấp cho cây đậu tương mà
còn để lại trong đất cho cây trồng sau.
+ Thân và lá có hàm lượng dinh dưỡng khá cao, do vậy để lại trên ruộng làm
tăng chất mùn, làm thay đổi lý tính của đất.
+ Tránh được sâu bệnh lây lan từ vụ trước để lại
Các công thức luân canh phổ biến ở nước ta:
Vùng núi phía Bắc:
+ Đậu tương xuân - lúa mùa - cây vụ đông (hoặc cày giữ ẩm qua đông).
+ Ngô xuân - đậu tương hè (hoặc hè thu) - cây vụ đông (hoặc cày giữ ẩm) Nơi
tưới tiêu chủ động: Lúa xuân - lúa mùa sớm - đậu tương đông.
Trung du đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ:
+ Đậu tương xuân - lúa mùa sớm - cây vụ đông.
+ Ngô xuân (khoai lang ngắn ngày) - đậu tương hè thu - cây vụ đông
+ Lúa xuân - lúa mùa sớm - đậu tương đông
* Một số công thức tăng vụ:
+ Ngô đông xuân - đậu tương hè - lúa mùa - rau vụ đông
+ Lúa xuân - đậu tương hè - lúa mùa - cây vụ đông
Đồng bằng Sông Cửu Long.
+ Đậu tương vụ 1 - lúa mùa (đất lúa)
+ Đậu tương - ngô (đất cao)
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên:
+ Ngô hè thu - đậu tương thu đông gối thuốc lá
+ Đậu tương hè thu - đậu tương thu đông gối thuốc lá
+ Ngô xen đậu tương hè thu - ngô xen đậu tương thu đông gối thuốc lá đông
xuân
2.2. Trồng xen và trồng gối
• Trồng xen:
Là đem 2 loại cây trồng không có cùng thời gian sinh trưởng nhưng có cùng thời
vụ gieo trồng đem gieo xen với nhau theo hàng, theo hốc hoặc theo băng. Nhân dân ta
thường có kinh nghiệm trồng xen đậu tương với nhiều cây trồng khác nhưng chủ yếu
đối với ngô. Trồng xen đậu tương với ngô là một loại công thức canh tác hợp lý, biết
sử dụng tốt đặc tính của các cậy.
+ Bộ rễ ngô là rễ chùm ăn rộng và sâu còn đậu tương ăn tương đối nông và
không lan rộng sử dụng hữu hiệu nguồn dinh dưỡng.
+ Tận dụng khả năng sử dụng ánh sáng, phối hợp một cây có thân cao bộ lá lớn
chịu cường độ ánh sáng mạnh với một cây có thân lá thấp, lá nhỏ, chịu cường độ ánh
sáng yếu.
+ Phối hợp được quan hệ dinh dưỡng giữa cây yêu cấu đạm nhiều như ngô với
cây yêu cầu lân nhiều như đậu tương.
+ Ngô chịu được hạn còn đậu tương chịu được ẩm.
Trồng xen giữa ngô và đậu tương tiết kiệm được đất đai, mang lại hiệu quả kinh
tế cao.
• Kỹ thuật trồng xen đậu tương với ngô:
- Thời vụ: Không nên xen với ngô đông xuân gieo tháng 11 - 12 mà xen với ngô
xuân gieo tháng 2-3.
Giống: Dùng các giống chín sớm và chín trung bình, tương đối thấp cây, tán gọn
để trồng trong hàng ngô: Có thể dùng giống Cúc, Ml03, ĐH4, DT84, DT99 vv...
- Cách xen: Xen một hàng đậu tương giữa 2 hàng ngô khoảng cách 2 hàng ngô:
70cm, đậu tương gieo thành hàng cây cách cây 5-6 ccm hoặc thành hốc 15-20cm/hốc
có 3-4 cây (hoặc 2 hàng ngô khoảng cách 80cm giữa gieo 2 hàng đậu tương cách nhau
15-20cm).
Ngược lại ta có thể trồng xen ngô với đậu tương theo tỉ lệ từ 5000-10000 cây
ngô/ha đậu tương. Đậu tương vẫn được gieo với mật độ bình thường nhưng gieo xen 1
cây ngô/2m2 hoặc 1 cây ngô/lm2 đậu tương.
- Phân bón: Dựa vào tỷ lệ trồng xen cụ thể, phải tổng tính lượng phân cho cả đậu
tương và ngô trên cơ sở qui ra diện tích trồng thuần. Phân của cây nào sẽ được bón cho
cây đó