Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 132 trang )
Tên đất, tên núi, tên rừng, tên biển, tên sông, tên đường phố, thậm
chí tên gọi các hành tinh bên ngoài Trái Đất đều là những địa danh.
Thuật ngữ địa danh nguyên thủy, trong tiếng Hy Lạp có cấu tạo
gồm hai bộ phận: topos (địa điểm) và anyma (tên gọi chung nhất với ý
nghĩa là “ tên gọi địa lý”). Nói khác đi, tất cả các tên gọi địa lý được đánh
dấu và ghi nhận bởi các địa danh. Địa danh chính là tên gọi được áp dụng
cho một đối tượng, không gian địa lý hoặc một đặc trưng địa hình, địa vật
nào đó, có tác dụng khu biệt nó với những cái xung quanh và xác định địa
điểm tồn tại của nó trong môi trường.
Ở Việt Nam, theo triết tự Hán - Việt, thuật ngữ địa danh có nghĩa
là “tên đất”. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều cách hiểu về địa danh. Tác
giả Đào Duy Anh cho rằng: “ Địa danh là tên gọi các miền đất” [2; 220].
Còn trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên lại giải thích địa
danh là “ tên đất, tên địa phương” [38; 34]. Nguyễn Văn Âu cho rằng: “
Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc, hay là tên địa phương,
làng mạc” [3; 18].
Với cách tiếp cận địa danh theo góc nhìn ngôn ngữ học, Nguyễn
Kiên Trường quan niệm: “ Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý
tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt Trái đất” [54; 16].
Còn Lê Trung Hoa đưa ra cách hiểu:
“ Địa danh là những từ ngữ cố định được dùng làm tên riêng của các địa
hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ ( không có
ranh giới rõ ràng) và các công trình xây dựng thiên về không gian hai
chiều” [19; 21].
Còn tác giả Từ Thu Mai lại đồng ý với cách hiểu của Superanskaja:
“ Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý có vị
trí xác định trên bề mặt Trái đất” [28; 21] .
Nhìn chung, với những quan niệm khác nhau đó có một số sự khác
biệt nhất định trong các quan niệm trên chủ yếu xuất phát từ phương diện,
góc nhìn không giống nhau. Nhưng qua đó cũng có thể hiểu một cách
chung nhất về địa danh như sau: Địa danh là những từ, cụm từ dùng để
gọi tên các đối tượng, không gian địa lý, các địa hình, địa vật; có tác dụng
khu biệt, định vị những đối tượng, không gian địa lý, các địa hình, địa vật
này với các đối tượng, không gian địa lý, các địa hình, địa vật khác.
Không có các địa danh tức là chúng ta đã mất đi những khung định vị,
những quy chiếu không gian quan trọng trong môi trường sinh tồn của
chúng ta.
Các nhà nghiên cứu địa danh học đều nhất trí cho rằng dịa danh
chính là những vật chứng đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu về dân
tộc, lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ. Dĩ nhiên, không phải biến cố lịch sử,
dân tộc, văn hóa nào cũng được địa danh ghi lại, cũng được phản ánh
trong địa danh. Nhưng địa danh chính là những “di chỉ khảo cổ học”
không nằm trong lòng đất, hiện hữu với tư cách là những bằng chứng,
hiện tượng đồng đại nhưng lại mang chứa nhiều thành tố thuộc về lịch
đại. Đó chính là cơ sở, là xuất phát điểm để chúng tôi thông qua mô tả nội
dung địa danh trong mối liên hệ với nhận thức của cộng đồng để nhận
diện nội dung văn hóa lịch sử của địa danh.
1.2 Khái quát về địa danh vùng ngã ba Bạch Hạc
1.2.1 Khái niệm “vùng văn hóa”
Xét về mặt từ nguyên “vùng” - region, được hiểu là một khu vực
địa lý, như vùng đất, vùng trời, vùng biển, không gắn với một cấp hành
chính nhà nước. Trong khi đó, thuật ngữ “lãnh thổ” - territoire, được hiểu
là một vùng hay khu vực địa lý thuộc một cấp quản lý hành chính nhà
nước. Do đó trong một vùng có thể có nhiều lãnh thổ.
Thuật ngữ “khu vực” được hiểu, được sử dụng với những biến thái
khác nhau. Nó có thể nhỏ hơn vùng như khu Tả ngạn, Hữu ngạn sông
Hồng, khu vực Hồ Gươm, Hồ Tây ở Hà Nội...; hoặc nó tương đương
vùng, ví dụ khu vực (hay vùng) Tây Bắc; cũng có thể lớn hơn vùng và
tương đương miền, ví dụ khu vực (hay miền) Bắc, Trung, Nam. Trong
tiếng Viêt, thuật ngữ “miền” thì rõ ràng nghiêng về cách hiểu là lớn hơn
“vùng”.
Cũng cần nói thêm rằng, thuật ngữ “vùng” không chỉ liên quan đến
vùng kinh tế, mà cơ bản dùng để chỉ một vùng văn hóa. Ở phương Tây, từ
cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện lý thuyết văn hóa vùng (Culture area). Năm
1894, O.T. Mason, lần đầu tiên trình bày lý thuyết văn hóa vùng trong tạp
chí American Anthropologist (Nhân loại học Mỹ), để làm cơ sở phân loại
các bộ lạc thổ dân da đỏ. Tiếp đó, vào những năm 1950, giới dân tộc học
ở Liên Xô cũ, trước tiên là các giáo sư N.N.Trebôcxarốp và M.G. Lêvin,
đã xây dựng lý thuyết về loại hình kinh tế - văn hóa và khu vực lịch sử dân tộc học, hay có thể gọi chung là lý thuyết lịch sử - văn hóa.
Các lý thuyết trên mặc dù khác nhau nhưng về cơ bản đều dựa vào
trình độ sản xuất các phương tiện sinh sống để phân chia các loại hình
kinh tế - văn hóa; ngoài ra còn chú ý đến các yếu tố cảnh quan - lãnh thổ,
quá trình cộng cư lâu dài, cùng chung vận mệnh lịch sử trong quá trình
hình thành, tồn tại, phát triển của các vùng văn hóa. Giới dân tộc học, văn
hóa học nước ta nhìn chung chịu ảnh hưởng nhiều của lý thuyết lịch sử văn hóa của các nhà khoa học Xô Viết.
Có thể quan niệm “vùng văn hóa” là một thực thể văn hóa, bao
gồm những đặc điểm về cảnh quan - lãnh thổ, trình độ và cách thức hoạt
động kinh tế, và các đặc điểm về văn hóa vật thể (nhà cửa, y phục, ăn
uống...), văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng tôn giáo...); trong đó có một số đặc trưng điển hình so với các vùng khác.
Văn hoá thống nhất trong đa dạng. Đặc trưng này thể hiện ngay
trong một nền văn hoá. Chính vì vậy, phân vùng là một trong những yêu
cầu có tính phương pháp luận trong nghiên cứu văn hoá.
Hiện có khá nhiều quan niệm về vùng văn hoá, trong đó quan niệm
của Trần Quốc Vượng đảm bảo được tính ngắn gọn của một định nghĩa,
thể hiện rõ quan điểm tiếp cận, đồng thời nêu bật được đặc trưng cơ bản
của một vùng văn hoá: “Một vùng văn hóa là một tổng thể - hệ thống một
không gian văn hóa (cutural space) với một cấu trúc - hệ thống
(structure- system) bao gồm các hệ dưới - hay tiểu hệ (sub- system) theo
lối tiếp cận hệ thống (system-analysis)” [58, 401].
Bên cạnh khái niệm vùng văn hóa của Trần Quốc Vượng, người viết
còn muốn đề cập đến khái niệm vùng thể loại văn hóa của Ngô Đức
Thịnh như một định hướng để tìm hiếu vùng ngã ba Bạch Hạc. Theo Ngô
Đức Thịnh, vùng thể loại văn hóa là một không gian địa lý nhất định, mà
ở đó từng thể loại văn hóa (truyền thuyết, sử thi, dân ca, sân khấu, âm
nhạc, ẩm thực, kiến trúc….) biểu hiện tính tương đồng, thống nhất thông
qua nội dung, kết cấu, các sắc thái biểu hiện, phương thức lưu truyền.
[46; 76]
Như vậy, trong luận văn, chúng tôi chấp nhận và sử dụng khái niệm
“vùng văn hóa” của Trần Quốc Vượng và “vùng thể loại văn hóa” của
Ngô Đức Thịnh để nhận diện vùng văn hóa ngã ba Bạch Hạc sau khi mô
tả nội dung của một số địa danh thuộc “không gian địa danh Bạch Hạc”
1.2.2 Vùng ngã ba Bạch Hạc
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi “sông Bạch Hạc”, khi mà đời xưa,
giao thông đường bộ chưa phát triển, thực tế đã trở thành phên dậu phía
Tây của kinh thành Thăng Long, mà điểm khởi đầu là điểm hợp lưu chính
thức của ba dòng sông : Đà, Thao và Lô, khi ấy gọi là sông Tuyên. Ngã
ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông Lô, tạo nên dòng trong
dòng đục, nước sông mênh mông, xa xa tả có Tam Đảo, hữu có Ba Vì,
hai bên bờ là làng mạc ruộng vườn tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập
vào ra… Tất cả những phong cảnh đó tạo cho ngã ba Bạch Hạc từ lâu nổi
danh là vùng sông nước hữu tình, sơn thanh thủy tú, bồi đắp sinh khí cho
vùng đất cổ Phong Châu, nơi vua Hùng chọn làm kinh đô đầu tiên của
nhà nước Văn Lang. Nơi này hội tụ cả ba dòng sông hùng vĩ của đất Bắc,
nên người xưa tin rằng ngã ba sông Bạch Hạc chính là nơi hợp “đại long
mạch” của đất tổ Hùng Vương.
Ngã ba Bạch Hạc chính là điểm hợp lưu của ba dòng sông. Vậy,
vùng ngã ba Bạch Hạc được xác định như thế nào? Theo định nghĩa của
Giaó sư Trần Quốc Vượng, vùng văn hóa trước hết là một không gian văn
hóa với một cấu trúc hệ thống bao gồm các tiểu hệ theo lối tiếp cận hệ
thống. Như vậy, khi tiếp cận một vùng văn hóa phải tiếp cận theo cấu trúc
hệ thống.
1.2.2.1 Tiểu vùng văn hóa đất Tổ
Căn cứ trên các sắc thái văn hóa địa phương, Ngô Đức Thịnh đã
phân chia vùng đồng bằng Bắc Bộ thành các tiểu vùng văn hóa và các đa
dạng văn hóa mang tính chuyển tiếp. Tiểu vùng văn hóa đất Tổ nằm trong
vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Tiểu vùng văn hóa này nằm gọn trong
địa giới tỉnh Phú Thọ và một phần của Sơn Tây cũ, gần trùng với xứ Đoài
như quan niệm dân gian. Thời các vua Hùng, vùng đất này là phần chính
của bộ Văn Lang, trung tâm của 15 bộ thời vua Hùng, nơi hợp lưu của
sông Đà, sông Lô với sông Thao để tạo ra dòng chảy sông Hồng. Thời
hậu Lê và đầu thời Nguyễn, vùng đất này thuộc trấn Sơn Tây, là một
trong “tứ trấn nội kinh”.
1.2.2.2 Vùng ngã ba Bạch Hạc
Theo như bài viết của Ngô Đức Thịnh thì vùng ngã ba Bạch Hạc
thuộc tiểu vùng văn hóa đất Tổ. Không gian văn hóa đất Tổ có một điểm
tương đồng và thống nhất từ ngàn xưa : không gian văn hóa mang đậm
dấu ấn của buổi bình minh dựng nước thời các vua Hùng. Nhắc đến vùng
ngã ba Bạch Hạc, ta nghĩ ngay đến vùng đất thiêng, cội nguồn của dân
tộc Việt, đến kinh đô Văn Lang xưa.
Ngã ba Bạch Hạc nằm trong địa giới thành phố Việt Trì ngày nay.
Thành phố Việt Trì còn có tên gọi là thành phố ngã ba sông. Địa giới
thành phố Việt Trì được xác địnhh từ Đền Hùng đến hết cầu Việt Trì
(Phía Đông, Việt Trì giáp sông Lô, huyện Lập Thạch, huyện Vĩnh Tường
– tỉnh Vĩnh Phúc; phía Tây giáp thị trấn Lâm Thao, thị trấn Hùng Sơn, xã
Tiên Kiên, xã Thạch Sơn; phía Nam giáp sông Hồng, xã Cao Xá, xã Sơn
Vi, huyện Lâm Thao và huyện Ba Vì – tỉnh Hà Tây cũ; phía Bắc giáp xã
Phù Ninh, xã An Đạo, xã Tử Đà, huyện Phù Ninh). Trên địa bàn thành
phố Việt Trì còn in đậm dấu tích thời các vua Hùng dựng nước Văn
Lang.
Như vậy, vùng ngã ba Bạch Hạc và thành phố Việt Trì có nhiều
điểm tương đồng, thống nhất trong một không gian văn hóa đất Tổ. Để
tiện cho việc nghiên cứu và thống kê, người viết xin xác định vùng ngã ba
Bạch Hạc là không gian văn hóa từ núi Nghĩa Lĩnh (Đền Hùng) đến hết
cầu Việt Trì (trùng với địa giới hành chính thành phố Việt Trì). Trong
“Truyền thuyết Hùng Vương”, Nguyễn Khắc Xương cũng đã xác định :
“Vua Hùng chọn đất Phong Châu làm kinh đô của nước Văn Lang, từ
ngã ba sông Bạch Hạc về tới núi Nghĩa Lĩnh” [60;26].
1.2.3 Phong Châu – Bạch Hạc – Việt Trì
Kinh đô Văn Lang xưa thường gắn với địa danh Phong Châu. Vậy,
Phong Châu và Bạch Hạc liệu có phải là một?
Trong Ức Trai di tâp, Nguyễn Trãi viết : “ Phong Châu là Bạch
Hạc, thuộc phủ Tam Đái bây giờ” [49; 23]. “ Đất Phong Châu có cây
chiên đàn, chim hạc trắng đậu ở trên cây, thế mới gọi là Bạch Hạc” [49;
28-29]. Vì sao người viết chọn tên địa danh là Bạch Hạc chứ không phải
Phong Châu? Bởi lẽ tên Bạch Hạc gắn liền với dòng sông. Và như chúng
ta đều biết, những nền văn minh lớn trên trái đất đều khởi nguồn từ các
dòng sông. Trong lịch sử nước ta, với sự tiến bộ của thuật luyện kim
đồng, các vùng ngã ba sông đã hình thành nên những điểm tụ cư đông
đúc của nhiều tộc người. Vùng Lào Cai với Nguyên Giang và Nam Khê
Hà hợp với nhau, nơi khởi đầu của sông Hồng trong lãnh thổ Việt Nam;
vùng đồi đền ở Cửa Rào Tương Dương, nơi hợp lưu của Nậm Nơn và
Nậm Mô để tạo ra sông Cả của tiểu vùng Nghệ An; vùng Đông Sơn với
sông Mã, sông Chu hợp lưu; vùng Việt Trì với sông Thao, sông Lô, sông
Đà. Theo dòng chảy xuôi của thời gian, số phận của những trung tâm này
đi theo những hướng khác nhau. (theo Diệp Đình Hoa- [30; 71]).
Giaó sư Trần Quốc Vượng đã viết : Nếu chỉ nói một câu về vị thế
địa chính trị, địa chiến lược, địa văn hóa của kinh đô cổ đại Văn Lang thì
tôi xin nói rằng : đó là vùng NGÃ BA SÔNG (Hợp lưu Thao-Lô-Đà). Tổ
tiên ta có câu : TỤ NHÂN NHƯ TỤ THỦY. Đây là vùng Tam Giang –
Tam Đái thới Lý Trần, vùng Tây Đạo thời Lê, xứ Đoài cuả dân gian LêNguyễn…. Về mặt địa chính trị - địa văn hóa, ta có 3 “thủ đô” tự nhiên :
Việt Trì (Văn Lang), Cổ Loa (Âu Lạc), Thăng Long – Phố Hiến (Đại
Việt). Cha ông ta đã rất tài tình khi lựa chọn đất đóng đô, đến mức nhà
địa lý học tài danh Nguyễn Thiệu Lâu và chúng tôi đã mệnh danh Làng
Cả (Việt Trì), làng Chủ (Cổ Loa) và Đại La (Thăng Long) là những thủ
đô thiên nhiên của người Việt phương Nam. Có sông Thao từ Vân Qúy
đến, lại có sông Đà từ Tây Bắc cuộn về, lại có sông Lô (và phụ lưu là
sông Chảy, sông Gâm) từ Việt Bắc dồn về. Thế thì Việt Trì – Bạch Hạc Ngã ba Hạc là nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân (30; 22-23).
Như vậy, theo cách nhìn địa văn hóa của giáo sư Trần Quốc Vượng
và nhiều học giả khác, không gian Việt Trì (hiện nay) và Phong Châu
(xưa) chính là vùng ngã ba Bạch Hạc. Chính ngã ba này là thực thể tự
nhiên thể hiện “vùng văn hóa” Phong Châu – Bạch Hạc – Việt Trì. Nói
một cách khác, vùng ngã ba Bạch Hạc chính là hiện thân tự nhiên của
“vùng văn hóa đất Tổ”.
1.2.4 Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên và dân cư vùng ngã ba Bạch Hạc
1.2.4.1 Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
Vùng ngã ba Bạch Hạc là mảnh đất nằm giữa sự chuyển giao từ địa
hình đồi núi sang địa hình đồng bằng và là một đỉnh của tam giác châu
thổ sông Hồng, cái nôi của nền văn hóa Việt cổ. Chính vì vậy mà vùng
đất này có cả địa hình đồi núi trung du ( phía Bắc của Việt Trì) và địa
hình đồng bằng (phía Nam Việt Trì). Nơi đây cảnh đẹp hữu tình với núi
rừng, sông suối chằng chịt, dãy đồi san sát như bát úp và những dải đồng
bằng màu mỡ dồi dào sản vật. Đồng thời, phía trước có ba con sông lớn
từ ba hướng đổ về hội tụ, phía sau có đồi núi trùng điệp bọc đỡ, bốn bề
đều có thành vách tự nhiên che chắn, không chỉ là nơi “sơn chầu thủy tụ”
dồi dào khí thiêng sông núi mà còn giữ thế chiến lược quan trọng “ tiến
khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (nghĩa là “tiến thì giữ thế mạnh, lui thì giữ
thế thủ”). Đây chính là nơi mà vua Hùng đã chọn làm đất đóng đô trong
buổi đầu dựng nước. Vùng đất này đã đi vào truyền thuyết: “ Đi tới một
vùng, trước mặt ba sông hội tụ, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về;
đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như hình hổ phục
rồng chầu, tướng quân bắn nỏ, ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả
đồi xanh tốt thấy có ngọn núi đột ngột nổi lên như con voi mẹ nằm giữa
đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề bãi rộng bồi đắp phù
sa, bốn mặt cây xanh hoa tươi quả ngọt, vừa trùng điệp vừa quanh co, có
rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng khen rằng đây thực là đất
họp muôn dân, đủ hiểm để giữ, có thế để mở, thế đất vững bền có thể
dựng được muôn đời”(tập 1) [34; 100].
Từ ngàn xưa, ngã ba Hạc đã là vùng đất “ tụ thủy tụ nhân” được
chọn làm trung tâm chính trị của nhà nước Văn Lang. Nhà quân sự kiêm
nhà thơ Phạm Sư Mạnh ( đời Trần) đã có những bài thơ ca ngợi vị trí và
cảnh đẹp nơi đây. Tiêu biểu là bài “ Hành quân”:
“ Nghĩ thuyền hà thạch tố thanh ba
Lãng lại tranh nghênh sứ bái qua
Lô thủy phiên ty, Thao tụ lạc
Văn Lang nhật nguyệt, thục sơn hà”
Tạm dịch:
“ Ngược dòng sóng đậu thuyền bến đá
Dân giành nhau đón sứ thần qua
Sông Lô phên dậu, Thao dân tụ
Văn Lang ngày tháng thục sơn hà”.
Với vị trí đặc biệt như vậy, Bạch Hạc - Việt Trì được các nhà sử
học và văn hóa học nước ta coi là một trong ba “ thủ đô tự nhiên” của
người Việt trong lịch sử: Làng Cả ( Việt Trì), Làng Chủ ( Cổ Loa) và Đại
La ( Thăng Long). Về mặt địa lý, nó tạo nên một tam giác châu thổ sông
Hồng nhưng cũng rất phù hợp với tiến trình lịch sử trải qua ba giai đoạn:
đỉnh Việt Trì (hơn 4000 năm), đỉnh Cổ Loa ( hơn 3000 năm) và đỉnh phố
Hiến ( hơn 400 năm).
Có thể nói Việt Trì – Bạch Hạc được chọn làm kinh đô của người
Văn Lang là điều tự nhiên, tất yếu bởi vị thế về mọi mặt hoàn toàn phù
hợp để xây dựng một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của một đất
nước mà chủ nhân của nó là những cư dân của nền văn minh sông Hồng.
Điều này đã được chứng minh trong lịch sử khi mà vị trí của Việt Trì
được đánh giá rất cao trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân
tộc.
Trong thời kì phong kiến tự chủ, thành phố ngã ba sông luôn là
một tụ điểm kinh tế, tụ điểm dân cư, nơi trao đổi các luồng sản vật của
núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc dồn về; hải sản từ miền biển lên; khiến nơi
đây trở thành một địa danh nổi tiếng sầm uất, trên bến dưới thuyền của
miền Tây Bắc.
Vùng ngã ba Hạc cũng nằm trên con đường thiên lý từ Vân Nam
(Trung Quốc) sang kinh đô Đại Việt. Nhiều triều đại phong kiến Việt
Nam thời Trần, thời Lê, thời Mạc đã chọn vùng ngã ba sông Bạch Hạc
làm vị trí trấn giữ phía Tây Bắc Thăng Long, bảo vệ triều đình và kinh đô
cả nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc,
Việt Trì – Bạch Hạc có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng ở vùng
hậu phương. Nằm trên tuyến giao thông huyết mạch cả đường sắt, đường
bộ, đường thủy; đây là cây cầu nối giữa Nam Trung Quốc, Tây Bắc Việt
Nam với thủ đô Hà Nội và vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đây cũng là địa điểm
tập trung khu công nghiệp lớn quan trọng của cả nước phục vụ công cuộc
xây dựng nền móng cho Chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc ngày nay, vùng ngã
ba Hạc vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh
tế - văn hóa - quốc phòng. Việt Trì – Bạch Hạc được coi là một trong
những cửa ngõ trọng yếu án ngữ phía Tây Bắc thủ đô và là điểm chốt
giao thông giữa một bên là cả vùng Việt Bắc rộng lớn và một bên là vùng
Tây Bắc mênh mông hiểm yếu của Tổ Quốc. Vị trí chiến lược lợi hại đó
cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội, thành phố ngã
ba sông thực sự được coi là một vùng trọng điểm về mọi mặt trong chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Bên cạnh vị trí quan trọng, vùng ngã ba Hạc còn có điều kiện tự
nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp và công nghiệp. Đất đai
chủ yếu là đất feralit đỏ vàng, vùng đồi, gò thấp và phù sa cổ ở những
thửa ruộng dốc. Đồng bằng là những cánh đồng hẹp, phù sa màu mỡ,
thuận lợi phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực và cây ăn
quả.
Ngoài ra, vùng này còn có hệ thống giao thông vận tải với đường
quốc lộ, tỉnh lộ cùng các tài nguyên khác như: thủy sản ( đặc biệt ngã ba
sông Việt Trì có giống cá Anh Vũ từ xưa đã được coi là đặc sản hiếm có
nổi tiếng cả nước), than bùn, vật liệu xây dựng…
Có thể nói, vị trí địa lý cùng những điều kiện tự nhiên của vùng
ngã ba Hạc là tiền đề ảnh hưởng đến sự hình thành kinh đô Văn Lang
trong quá khứ và sự ra đời của thành phố Việt Trì – trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội ngày nay của tỉnh Phú Thọ. Từ mảnh đất có bề
dày truyền thống lịch sử này, chúng tôi tìm hiểu những giá trị văn hóa ẩn
sau vùng đất kinh đô xưa.
1.2.4.2 Đặc điểm dân cư – văn hóa xã hội
Cư dân vùng ngã ba Hạc có nguồn gốc từ cư dân Văn Lang thời
các vua Hùng. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, đây là nơi
hội tụ của nhiều nhóm Việt cổ mang những sắc thái đa dạng trong một
thể thống nhất của nền văn minh Đông Sơn.
Các hiện vật khảo cổ học cùng truyền thuyết Hùng Vương cho thấy
một số đặc điểm sinh hoạt, kinh tế xã hội của người Việt cổ trong khu
vực.
Người Văn Lang cư trú ở vùng gò đồi thấp ven các triền sông, ở
nhà sàn, kinh tế chủ yếu là trồng lúa nước, săn bắn và chăn nuôi gia súc
nhỏ. Truyền thuyết có nhắc tới vua Hùng dạy dân cấy lúa ở Minh Nông,
kho lúa ở Nông Trang, nơi trồng lúa nếp ở Hương Trầm…