1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

3 Địa danh di tích kiến trúc - tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 132 trang )


Việt Trì – Bạch Hạc là trung tâm của nước Văn Lang xưa nên tập

trung đậm đặc nhiều di tích kiến trúc, tôn giáo. Theo số liệu thống kê,

vùng ngã ba Bạch Hạc có tổng số 60 di tích kiến trúc, tôn giáo ở các loại

hình: đình, đền, chùa , miếu. Trong đó có 31 di tích đình, đền, miếu thờ

vua Hùng, các bộ tướng nhà Hùng và mẹ, vợ, con các vua Hùng; 7 di tích

đình, đền thờ tướng lĩnh các giai đoạn lịch sử khác và 22 ngôi chùa là

giáo đường Phật giáo. Vậy, loại trừ các di tích chùa thì số lượng các di

tích liên quan đến thời đại Hùng Vương chiếm 84% tổng số các di tích

đình, đền, miếu trên địa bàn vùng ngã ba Bạch Hạc. Điều này nói lên tính

chất cội nguồn, tính chất kinh đô đậm nét ở vùng ngã ba Bạch Hạc, góp

phần cùng các di tích khảo cổ học và di sản văn hóa phi vật thể minh

chứng cho sự tồn tại của kinh đô Văn Lang trong quá khứ.

Trong giới hạn của luận văn này, chúng tôi không thể đi sâu trình

bày một cách cụ thể từng di tích, chỉ xin trình bày một cách khái quát về

hệ thống bằng phương pháp thống kê. Chúng tôi tạm phân loại các di tích

theo thực trạng kiến trúc, nghệ thuật hiện nay.

3.3.1 Nhóm di tích được xây dựng sớm vào thời Lê.

Nhóm di tích này được xây dựng vào thời Nhà Lê, được trùng tu

lớn vào thời Nguyễn, hiện nay bảo lưu và kết hợp cả hai nền kiến trúc nghệ thuật Lê và Nguyễn. Có thể nghĩ rằng những di tích này phản ánh

nhận thức của cư dân thời Lê về văn hóa Hùng Vương.

1) Đình Lâu Thượng, xã Trưng Vương

Đình Lâu Thượng thờ Tản Viên Sơn Thánh và Hai Bà Trưng. Đây

là ngôi đình xây dựng từ thế kỷ XVII, được đánh giá là có giá trị hàng

đầu trong hệ thống di tích, kiến trúc, tôn giáo ở Việt Trì. Đình được xếp

hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia từ năm 1995.

Địa danh Lâu Thượng, như đã phân tích ở trên, liên quan đến việc

kén rể của vua Hùng mà người chiến thắng là Tản Viên Sơn Thánh. Phải

chăng, đình thờ thần Tản Viên là như vậy?



2) Đình Bảo Đà, phường Dữu Lâu

Đình Bảo Đà thờ ba vị tướng thời Hùng Vương: Cao Sơn, Quý

Minh, Trung Triệu tướng quân. Đình được Bộ văn hoá thông tin công

nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1993.

3) Đình Hương Trầm, phường Dữu Lâu

Đình thờ tướng của vua Hùng thứ 18 là Quý Minh. Đây cũng là

một trong những ngôi đình cổ được xây dựng trên địa bàn thành phố Việt

Trì vào cuối thế kỷ XVII. Đình Hương Trầm còn bảo lưu một số di vật

phong phú.

4) Đình Phượng An, xã Lâu Thượng

Đình thờ vua Hùng và Tản Viên Sơn Thánh

5) Đình An Thái, xã Phượng Lâu

Đình An Thái thờ các vua Hùng và Tản Viên.

Đây là một trong tám di tích của xã Phượng Lâu . Ngôi đình này

rất nổi tiếng bởi nó gắn với tục hát Xoan cửa đình ở Phú Thọ.

6) Đền Phượng Lâu, xã Phượng Lâu

Đền thờ Quý Minh. Đây là di tích đã được uỷ ban nhân dân tỉnh xếp

hạng.

7) Đền Vân Luông, xã Vân Phú

Đền thờ Tản Viên Sơn Thánh. Đền Vân Luông là di tích duy nhất

còn lại của xã Vân Phú và là nơi tổ chức lễ hội cướp chài ném bông rất

độc đáo gắn với sự tích về Tản Viên thời Vua Hùng thứ 18.

8) Đền Cẩm Đội, xã Thuỵ Vân

Đền thờ Đông Hải và Quý Minh, hai vị tướng thời Hùng Vương.

9) Đình Hùng Lô, xã Hùng Lô

Đây là một ngôi đình hết sức nổi tiếng nằm trong khu vực phụ cận

đền Hùng. Đình thờ vua Hùng thứ 18, thuộc loại hình di tích kiến trúc

nghệ thuật có giá trị hàng đầu trong hệ thống di tích của tỉnh Phú Thọ.

3.3.2 Nhóm các di tích xây dựng vào thời Nguyễn.



Những di tích này được xây dựng vào thời Nguyễn và hiện nay cơ

bản vẫn bảo lưu được kiến trúc- nghệ thuật thời Nguyễn. Phân tích địa

danh những di tích này sẽ góp phần phản ánh nhận thức của cư dân thời

Nguyễn về văn hóa Hùng Vương

1) Đình Nội, xã Trưng Vương

Là di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh

2) Đình Phú Nông, xã Trưng Vương

Thờ các vua Hùng và Cao Sơn, Ất Sơn, Viễn Sơn

3) Đình Phú Hữu, xã Trưng Vương

Đình thờ ba vị tường thời Hùng Vương : Cao Sơn, Linh Lang và Đô

Thiện.

4) Đền Thánh Mẫu, xã Thuỵ Vân

Đền thờ Ngọc Tiên công chúa thời Hùng Vương.

3.3.3 Nhóm các di tích khác.

Đây là nhóm di tích có nguồn gốc xây dựng từ lâu đời nhưng

không còn bảo lưu kiến trúc cổ, hiện nay được tôn tạo lại hoàn toàn.

Nhóm các di tích này có số lượng tương đối lớn, rải khắp các

phường, xã và ở các loại hình : đình, đền, chùa. Đại đa số các di tích này

được tôn tạo lại trên nền cũ, chỉ có đền Tiên Cát, chùa Phúc Long xưa ở

khu vực nhà máy mì chính, sau này nhà máy đền bù đất và được xây

dựng ở vị trí hiện nay.

Tiêu biểu cho nhóm di tích này có các di tích sau:

1)Đình chùa Mộ Chu Hạ ( Bạch Hạc)

2)Đền Tiên Cát – chùa Phúc Long ( Tiên Cát)

3)Đền chùa Tam Giang ( Bạch Hạc)

4)Đình Dữu Lâu ( Xã Dữu Lâu)

5)Đình Quế Trạo ( Xã Dữu Lâu)

6)Chùa Hoa Long ( Phường Bến Gót)

7Chùa Thiên Long( Phường Thanh Miếu)



8)Đình Tràng Đông, chùa Đông Thiên ( Phường Thanh Miếu)

9)Đình Việt Trì ( Phường Bến Gót)

10)Chùa Bảo Ngân (xã Sông Lô)

11)Chùa Nang (xã Vân Phú)

12)Đàn Tịch Điền (xã Minh Nông)

13)Chùa A Ốc ( xã Trưng Vương)

14)Chùa Bối Linh ( xã Trưng Vương)

15)Chùa Khánh Nguyên ( xã Minh Nông)

Các di tích này đều mới được khôi phục lại nhưng điều đáng chú ý

là đại đa số đều được khôi phục đúng cách thức truyền thống, hài hoà với

cảnh quan và được gia cố cẩn thận, vững chắc.

Qua thống kê chúng ta thấy tập chung đa số các di tích thờ vọng

các vua Hùng, Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh. Đây là các vị thần tiêu

biếu trong huyền thoại thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Trong đó Tản Viên là

một trong bốn vị thần được coi là tứ bất tử trong văn hoá tâm linh người

Việt. Còn Cao Sơn là một vị “Nhân thần” phổ biến nhất trong dân gian.

Đây là những anh hùng của thời kỳ mở nước.

Vùng ngã ba Bạch Hạc là địa bàn có hệ thống các di tích thờ vua

Hùng và các nhân vật liên quan đến Hùng Vương đậm đặc nhất, tập

chung nhất, tiêu biểu nhất. Chính đặc điểm thờ tự này đem đến cho hệ

thống các di tích ở đây một giá trị tín ngưỡng tâm linh, mà từ đây nó sản

sinh ra loại hình tín ngưỡng văn hoá dân gian độc đáo, phong phú, đầy

bản sắc cội nguồn của kinh đô Văn Lang xưa.

Các di tích trên vùng ngã ba Bạch Hạc đều có lịch sử xây dựng từ

lâu đời, sớm nhất là cuối thế kỷ XVII, muộn nhất là đầu thế kỷ XX.

Trong đó có nhiều di tích đẹp, còn bảo lưu gần như nguyên vẹn kiến trúc

nghệ thuật thời hâu Lê và thời Nguyễn.

Sự tập trung nhiều đình, đền, chùa trên vùng ngã ba Bạch Hạc phản

ánh đời sống tinh thần, văn hoá tín ngưỡng vô cùng phong phú của người



dân nơi đây. Có thể coi đây là một nét đẹp văn hoá của cư dân vùng đất

Tổ. Đặc biệt những công trình kiến trúc, tôn giáo này phần lớn thờ các

vua Hùng và những nhân vật liên quan tới thời Hùng Vương. Đây là nét

đặc sắc riêng có của thành phố "ngã ba sông".

3.3.4 Quần thể di tích lịch sử Đền Hùng

Sở dĩ chúng tôi tách riêng quần thể di tích Đền Hùng bởi di tích

này không chỉ có ý nghĩa đối với địa phương mà còn có ý nghĩa quốc gia

vô cùng to lớn. Đây được coi như một quần thể di tích đặc biệt, mang ý

nghĩa tâm linh sâu sắc đối với mỗi người dân Việt Nam.

Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành

phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Hùng cách trung tâm thành phố Việt Trì

7km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội 90km. Đền Hùng là di tích lịch sử

văn hóa đặc biệt quan trọng của quốc gia, được xây dựng trên núi Nghĩa

Lĩnh thuộc đất Phong Châu – vốn là đất đế đô của nhà nước Văn Lang

hơn 2000 năm trước. Toàn bộ khu di tích có bốn đền, một chùa và một

lăng hài hòa trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng

vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thủy hội tụ.

Khu di tích này được xây dựng trên núi Hùng (còn coi là Núi Cả

theo tiếng địa phương hay có nhiều tên gọi khác nhau: Nghĩa Lĩnh, Nghĩa

Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn…). Tục

truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng

uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo.

Từ chân núi, du khách sẽ được chiêm ngưỡng lần lượt các di tích

kiến trúc:

1. Cổng đền

2. Đền Hạ

3. Nhà bia

4. Chùa Thiền Quang

5. Đền Trung



6. Đền Thượng

7. Đền Giếng

8. Đền tổ mẫu Âu Cơ

9. Bảo tàng Hùng Vương

3.3.4.1 Cổng đền

Cổng đền Hùng hiện ra ở chân núi phía Tây, bên những gốc thông

đại thụ cao vót. Cổng xây dựng theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn

cong. Bờ nóc có “ lưỡng long chầu nhật”. Cửa chính giữa cao rộng. Giữa

cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một

người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một

có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” ( lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có

người dịch là “ Cao sơn cảnh hạnh” (đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng

đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.

3.3.4.2 Đền Hạ

Theo truyền thuyết, đây là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng,

sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc “ đồng bào” ( cùng bọc)

được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “ Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp

trứng nay vẫn còn ở phía sau đền.

Trong khu vực đền Hạ, có một ngôi chùa xưa có tên “ Sơn cảnh

thừa long tự” sau đổi thành Thiên Quang Thiền Tự. Trước cửa chùa là

cây thiên tuế sống được 700 năm. Tại nơi đây, vào ngày 19 tháng 8 năm

1954, Bác Hồ đã nói chuyện với cán bộ chiến sĩ sư đoàn 308 có nhiệm vụ

tiếp quản thủ đô Hà Nội. Bác dặn: “ Các vua Hùng đã có công dựng

nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Chùa còn có một gác chuông được xây dựng vào thế kỉ XVII. Trên

gác chuông có treo quả chuông ghi: “ Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm

Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Qua đó

có thể đoán quả chuông được đúc thời Hậu Lê.



3.3.4.3 Đền Trung ( Hùng Vương tổ miếu)

Tương truyền đây là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc

tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây

vua Hùng thứ sáu đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo

đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày.

Theo lời kể của các cụ già ở địa phương, đền Trung có sớm nhất,

do thôn Trẹo (tên nôm của làng Triệu Phú, có đông người họ Trẹo, nay

đổi thành Triệu) xây dựng từ thời xa xưa để thờ các vua Hùng. Sau làng

Trẹo đông dần, chia thành ba làng là: Triệu Phú, Cổ Tích, Vi Cương.

Hai làng mới cũng lập đền thờ trên núi. Làng Cổ Tích dựng đền

Thượng. Làng Vi Cương dựng đền Hạ. Triệu Phú là làng gốc vẫn trông

nom thờ cúng đền Trung như cũ.

3.3.4.4 Đền Thượng và Lăng Hùng Vương

Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời

Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành

nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu

mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.

Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho

người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc

và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân

dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Đền Thượng có tên chữ là

“Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời) còn có tên là “Cửu trùng tiên

điện” (Điện giữa chín tầng mây). Trong Đền Thượng có bức đại tự đề

“Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam).

Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục

Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo

vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói

trông nom miếu vũ họ Hùng.



Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng

mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy,

mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27

(1870) cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (1922) trùng tu

lại.

3.3.4.5 Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh)

Tương truyền đây là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa

(con gái vua Hùng thứ 18) thường soi gương vấn tóc khi theo cha đi kinh

lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên

được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời.

3.3.4.6 Trong quần thể di tích Đền Hùng còn có Đền Tổ Mẫu Âu Cơ và

Bảo tàng Hùng Vương. Đền Tổ Mẫu thờ mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu Lạc

Tướng. Bảo tàng Hùng Vương lưu giữ những hiện vật tìm thấy từ thời

Hùng Vương. Các hiện vật trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát : “

Các vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”.

Di tích Đền Hùng còn được đến ngày nay đứng về quy mô và nghệ

thuật nó không thể so sánh được với các di tích lịch sử có tên tuổi trong

nước, nhưng đứng về giá trị lịch sử, văn hoá, ý nghĩa nhân văn của nó

không thua kém bất cứ kỳ quan nào trên thế giới. Bởi lẽ, nó là chứng tích

của một thời đại dựng nước kéo dài hàng ngàn năm, thời đại mở đầu của

một quốc gia, dân tộc. Ngày hội Đền Hùng là ngày giỗ Tổ, một hiện tượng

lịch sử có lẽ không thấy đối với bất cứ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới.

Tuy nhỏ bé, khiêm nhường song nó lại hết sức bền lâu và ngày càng phong

phú. Điều đó chứng tỏ sự tôn tạo và giữ gìn của nhân dân trong suốt chiều

dài hàng ngàn năm lịch sử.

Đến với Đền Hùng là đến với cội nguồn dân tộc, là hành hương tìm

về nguồn, là để cháu con của dòng Lạc Hồng được gặp nhau, hoà chung

trong một cảm xúc “tình nghĩa đồng bào”, cùng nâng cao tinh thần xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.



Hội đền Hùng hay ngày giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là biểu

hiện ý nghĩa thiêng liêng “tìm về nguồn” mà còn là một ngày vui lớn, thể

hiện nhiều nét văn hoá đặc sắc của của người dân vùng đất Tổ.

Quần thể di tích Đền Hùng mang ý nghĩa văn hoá, nhân văn vô

cùng to lớn. “ Tổ Hùng được thờ ở Đền Hùng đã trải qua một quá trình

siêu việt tâm linh, vượt lên trên mọi hình thức Tổ cụ thể, lên trên Vua Tổ

cụ thể. Sự thờ cúng này đã đạt tới mức tổ toàn vẹn- hoàn thiện, căn bản

tức là cội nguồn- bản tính đồng nhiên của con người. Lễ hội Đền Hùng

cũng không chỉ dừng lại nơi ngày giỗ Tổ, tưởng nhớ tổ tiên, không chỉ là

một cuộc hành hương về đất Tổ, đất Thánh hay đất phát tích của một

dòng vua đầu tiên, đất phát tích của dân tộc Việt Nam mà thực sự đã trở

thành một bức tranh tâm linh, là sự trở về cội nguồn dân tộc”(tập 2) [34;

51]

3.4. Địa danh gắn với lễ hội

Lễ hội dân gian truyền thống hay giản dị hơn theo lối nói của nhân

dân ta thời trước là “hội làng”, “hội làng quê” là biểu hiện tổng hợp và

tập chung cao nhất của văn hoá làng xã, văn hoá công xã nông thôn. Lễ

hội thu hút vào nó không chỉ những thành phần tín ngưỡng, tôn giáo,

những trò vui chơi hội đám mà còn là toàn bộ sinh hoạt nông thôn với

phong tục, tập quán cho tới các nghề nghiệp truyền thống. Có thể nói đến

với lễ hội làng quê là đến với văn hoá làng xã và để tìm hiểu về nông

thôn, về những giá trị tinh thần cho tới những đáy sâu tiềm ẩn tâm linh

của nhân dân công xã.

Lễ hội dân gian ở vùng ngã ba Bạch Hạc nói riêng, ở Phú Thọ nói

chung chính là cơ sở bảo tồn văn hoá làng xã và di sản văn hoá dân tộc.

Lễ hội nơi đây mang những yếu tố hình thức phổ biến của lễ hội người

Việt nói chung nhưng cũng có những biểu hiện địa phương mang tính đặc

thù của một vùng trung du, là điểm khởi hành của lịch sử dân tộc.



Trên vùng ngã ba Bạch Hạc có rất nhiều lễ hội. Hầu hết lễ hội đều

gắn với những đình, đền, chùa. Chúng tôi đã thống kê được một số lễ hội

tiêu biểu sau:

1. Hội bơi chải Đền Tam Giang - Bạch Hạc.

2. Lễ hội đình Mộ Chu Hạ

3. Lễ hội đình Dữu Lâu

4. Lễ hội rước kiệu đình Hùng Lô

5. Hội hát Xoan An Thái

6. Hội cướp bông, ném chài đền Vân Luông

7. Hội đu tiên đình làng Phương Châu, Phú Nông, Phú Hữu (Minh

Phương)

8. Lễ hội đình Lâu Thượng

9. Lễ hội đình Phượng An (Phượng Lâu)

10. Lễ hội làng Hương Lan (xã TRưng Vương)

11. Hội bơi chải đền Chi Cát

12. Lễ hội đình Hương Trầm

13. Lễ hội xuống đồng làng Minh Nông

Trong phạm vi bài luận này, chúng tôi không có điều kiện trình bày

cụ thể từng lễ hội. Chỉ xin trình bày một số lễ hội đặc sắc mang đậm bản

sắc văn hoá tín ngưỡng vùng Đất Tổ.

3.4.1. Lễ hội Tịch Điền (Vua Hùng dạy dân cấy lúa ở làng Minh Nông)

Minh Nông là tên gọi một vùng đất khởi thuỷ của nghề nông, xưa

thuộc Kẻ Nú hay làng Nú.

Minh Nông có vị thế địa lý tiếp giáp với hạ lưu của ba dòng sông lớn:

sông Thao, sông Đà, sông Lô nên được thừa hưởng sự cung cấp, đắp bồi bởi

một lượng phù sa màu mỡ từ ba dòng sông ấy. Chính đó là đặc điểm nổi bật,



là yếu tố quyết định để Minh Nông trở thành quê hương của nghề trồng lúa

nước.

Theo truyền thuyết, đồng Lú là nơi Vua Hùng đã xuống đồng dạy

dân cấy lúa. Do Vua Hùng là dòng dõi của Viêm Đế Thần Nông và là

người khai sáng ra cách làm ruộng. Vì vậy Vua Hùng được thần thánh

hoá lên thành Thần Nông và cầu Thần Nông cũng chính là cầu Vua

Hùng.

Làng Lú xưa có hai kỳ cầu xuống đồng (hạ điền) vào ngày mùng 1

tháng 6 và mùng 1 tháng 11 âm lịch và hai lễ cơm mới ( thượng điền) sau

khi thu hoạch vụ chiêm và vụ mùa.

Hiện nay, lễ xuống đồng (Hạ Điền) vào ngày mùng 1 tháng 6 âm

lịch hàng năm: buổi sáng thắp hương vừa là sóc vọng, vừa là báo đến các

đền thờ. Khoảng 9giờ sáng, tất cả các quan viên, chức sắc và dân làng

đến tập chung tại khu vực đàn Thần Nông. Khi chuẩn bị vào tế thì chiêng

trống nổi lên. Đội hình gồm chủ tế, đông xướng, tây xướng, các cụ chức

sắc cho tới 14 ông trưởng giáp.

Khi các quan viên đã tề tựu, chủ tế bước tới một chiếc chiếu, nhìn

về hướng Tây Nam (hướng của đàn thờ). Chủ tế làm lễ 4 tuần tế sau đó

chuyển chúc văn cho ông đọc văn tế.

Bản tế văn gôm 367 chữ Hán nhan đề: Thượng điền, hạ điền tản tế

Thần Nông văn, đại ý nội dung như sau:

- Khấn tiên thánh đế Thần Nông về hưởng lễ hạ điền (hay thượng

điền)

- Dân chúng ở đây từ cổ chí kim vẫn ghi nhớ công đức của Thần

Nông dậy nghề làm ruộng .

- Cầu tiên thánh đế Thần Nông phù hộ, ban phúc.

Tế xong thì làm lễ xuống đồng. Ông chủ tế kiêm chủ điền lúc này

đóng vai tượng trưng cho Vua Hùng cùng các quan viên, hội đồng kỳ mục

và đông đảo bà con dân làng ra ruộng cấy lúa. Một người cầm hương, một



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

×