Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 132 trang )
Hồng Hạc mộc mạc, chân quê, thuần khiết. Nâng trái hồng trên
tay, lựa lưỡi dao sắc, gọt lớp vỏ vàng màu nắng nhạt, bổ ra đã thấy thơm
lựng, vị ngọt dịu dàng, đài các ngất ngây duyên trời, duyên đất. Cái mát,
cái giòn, cái ngọt cứ ngập ngừng, quyến luyến khiến người thưởng thức
không nỡ nuốt nhanh. Hồng Hạc bày trên mâm cỗ trung thu, thưởng
ngoạn dưới trăng thu thi vị thanh tao, càng khó có thứ quả nào sánh kịp.
3.5.2 Sông Hồng và cá Anh Vũ
Sách "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn có viết về loại cá này
như sau: “cá ấy ở sông Việt Trì ngon lắm, cứ đến tiết đông lạnh mới có,
còn về xuân hạ ấm nóng thì một con cũng không có, không biết nó đi
đâu’’ [15;217]. Từ sông Bạch Hạc trở xuống không có 1 con nào, vì cá ấy
chỉ ở giới hạn sông Việt Trì thôi.
Cá Anh Vũ là một đặc sản nổi tiếng của Phú Thọ nói chung của
vùng Ngã Ba Hạc nói riêng. Đó là một loại cá mình giống cá trôi, mồm
như mõm lợn, thịt ăn rất ngon. Tương truyền ngày xưa là loại cá được
dâng tiến lên nhà vua. Theo ý kiến của các ngư dân vùng này, mùa nóng,
cá Anh Vũ ẩn trong hang sâu, đầu mùa đông mới ra ngoài do đó mới
đánh bắt được. Vì loại cá này luôn ở chỗ nước chảy xiết, phải dùng miệng
cắn chặt vào bờ đất nên môi cá phát triển thành hình dáng của mõm lợn.
Trong những năm gần đây, cá Anh Vũ ở Việt Trì rất hiếm nếu
không muốn nói là không thấy có. Loại cá này đã trở thành đặc sản của
vùng Bạch Hạc, của đất Việt Trì không chỉ thời xưa mà đến tận bây giờ.
3.5.3. Thịt chó Việt Trì
Cũng vẫn là bảy món đặc trưng như mọi nơi nhưng thịt chó Việt
Trì lại có sức hấp dẫn rất riêng bởi hương vị đậm đà và khả năng chế biến
đạt đến độ chuyên nghiệp. Chọn nguyên liệu được coi là khâu mấu chốt
quyết định, không sử dụng những loại chó nuôi tăng trọng là đặc điểm
quan trọng của thịt chó Việt Trì, đặc biệt chó nuôi gầm nhà sàn của các
vùng dân tộc miền núi đã được trưng dụng và được thực khách sành ăn
rất ưa chuộng, kế đến là khâu chế biến được coi là bí quyết gia truyền...
Với cảm nhận của người thưởng thức, có thể đưa ra một vài nhận xét như
sau: Thịt mềm, thơm, không sẫm màu như một số vùng khác. Đặc biệt
những món như dồi, món nướng không bị khô. Món chân chó tẩm hấp lại
mang đến một dư vị đậm đà khó tả với màu vàng ngậy và độ mềm, thơm
vừa tới. Món xương hầm đu đủ mang đến một cảm nhận khác về sản vật
vùng trung du miền núi...
Người Việt Trì tự hào về thú ẩm thực rất dân dã của đất mình và
chắc chắn đến Việt Trì một lần bạn sẽ được những tấm lòng hiếu khách
khoản đãi món ngon này. Phố Đoàn Kết là trung tâm của thịt chó Việt Trì
với gần 20 cửa hàng lớn nhỏ. Những cửa hàng này đều đã có trên dưới
chục năm nay nhưng vẫn mang vẻ bình dị, dân dã vốn có bởi theo những
chủ cửa hàng ở đây thì phòng ốc bóng nhoáng, bàn ghế sang trọng sẽ
không còn là thịt chó Việt Trì.
3.6 Tiểu kết
Những địa danh mà chúng tôi tìm hiểu không chỉ mang ý nghĩa vật
chất mà còn mang ý nghĩa tinh thần vô cùng to lớn.
Địa danh di tích khảo cổ là một bằng chứng quan trọng chứng
minh vùng ngã ba Bạch Hạc có một quá trình lịch sử phát triển lâu dài và
liên tục, những giá trị văn hoá của vùng đất được hình thành từ xa xưa,
khi con người đặt chân đến nơi này. Các hiện vật khai quật được đã
chứng minh có một thời đại Hùng Vương từng tồn tại trên vùng ngã ba
Hạc. Đó là thời mà vua và dân cùng chung sống, cùng cày cấy. Các hoạt
động trong nông nghiệp được phản ánh qua những hiện vật tìm thấy. Qua
các di tích khảo cổ, ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về đời sống của cư
dân Văn Lang xưa.
Địa danh di tích kiến trúc, tôn giáo phản ánh đời sống văn hoá, tinh
thần, tôn giáo, tín ngưỡng của những người con vùng đất Tổ cùng ý thức
hướng về cội nguồn. Phần lớn các di tích đều là nơi thờ vọng các nhân
vật trong truyền thuyết thời Hùng Vương. Điều đó chứng tỏ niềm tin
trong ý thức của con người trên vùng đất ngã ba sông về thời đại Hùng
Vương trong lịch sử. Đó là thời mà vua và dân cùng hợp sức trống thiên
tai, cùng đánh giặc và cùng chia sẻ những giá trị văn hóa tinh thần. Đặc
biệt quần thể di tích lịch sử Đền Hùng mang ý nghĩa tâm linh quan trọng,
không chỉ đối với người dân vùng ngã ba Bạch Hạc mà còn đối với mọi
người dân Việt Nam.
Địa danh lễ hội phần lớn đều gắn với những đình, đền, chùa, gắn
với những di tích vật thể. Lễ hội không chỉ là nơi vui chơi mà còn là nơi
tái hiện lại những nghi lễ, những nếp sống, tập tục từ ngàn xưa. Đây là
nơi phản ánh đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân Văn Lang. Đó là bức
tranh tinh thần của những con người gắn với nông nghiệp lúa nước và tín
ngưỡng sơ khai.
Địa danh ẩm thực cho ta thấy một góc văn hóa nữa cuả con người
vùng ngã ba Bạch Hạc. Sản vật của vùng đất này thơm ngon đặc biệt
dùng để tiến vua chứng tỏ rằng người dân nơi đây luôn luôn tin và
ngưỡng vọng về một thời đại Hùng Vương.
Qua địa danh di chỉ khảo cổ, địa danh di tích kiến trúc tôn giáo, địa
danh lễ hội và địa danh ẩm thực, ta đã có một cái nhìn đầy đủ và toàn
diện về lịch sử và văn hóa của vùng ngã ba Bạch Hạc. Đây không chỉ là
mảnh đất mang trong mình chiều dài hơn 2000 năm lịch sử, bắt đầu từ
thời Hùng Vương dựng nước mà còn chứa đựng chiều sâu văn hóa. Văn
hóa trên mảnh đất này là văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước, bởi
vậy nó gần gũi với cuộc sống và con người. Bao trùm toàn bộ văn hóa
vùng ngã ba Bạch Hạc là văn hóa thời Hùng Vương, văn hóa gắn liền với
18 đời họ Hùng. Địa danh di chỉ khảo cổ, địa danh di tích kiến trúc tôn
giáo, địa danh lễ hội và địa danh ẩm thực minh chứng rằng thời đại Hùng
Vương không chỉ tồn tại trong truyền thuyết mà còn tồn tại trong hiện
thực, trong lịch sử qua những chứng cứ hùng hồn và thuyết phục. Đây
chính là mảnh đất thiêng, là kinh đô Văn Lang xưa.
Ta có thể tìm hiểu lịch sử - văn hóa bằng nhiều nguồn tư liệu khác
nhau, song cũng không thể phủ nhận con đường tìm hiểu lịch sử - văn hóa
qua địa danh. Đây là một trong những cách tiếp cận sống động, cụ thể và
sâu sắc.
C. KẾT LUẬN
Tìm hiểu về hệ thống các địa danh trên vùng ngã ba Bạch Hạc,
chúng tôi không chỉ dựng lại bức tranh toàn cảnh về thành phố "ngã ba
sông" mà còn khai thác được những giá trị lịch sử, văn hóa, phong tục tín
ngưỡng đằng sau mỗi địa danh.
Vùng ngã ba Bạch Hạc giữ một vị trí chiến lược quan trọng trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đây được coi là tấm đệm giữa miền Tây
Bắc - Việt Bắc và thủ đô Hà Nội. Với vị trí đặc biệt là hợp lưu của ba con
sông, là đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, Việt Trì – Bạch Hạc được coi
là điểm nút giao thông nối liền các tỉnh miền núi phía Bắc với Hà Nội và
các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn. Vùng ngã ba Bạch Hạc luôn là
cửa ngõ giao lưu giữa các nền văn hoá. Đây không chỉ ẩn chứa những giá
trị cơ bản nhất của văn minh Lạc Việt mà còn tiếp thu sáng tạo tinh hoa
của các vùng miền trong khu vực. Sự hội nhập văn hoá đó đã tạo nên một
giá trị văn hoá độc đáo của vùng đất này, nó có một sức mạnh lan toả
mãnh liệt và đó chính là cơ sở của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước
của chúng ta suốt 4000 năm lịch sử. Với vị trí đắc địa, điều kiện tự nhiên
và dân cư thuận lợi, vùng đất này xứng đáng để 18 đời họ Hùng chọn làm
kinh đô, xây dựng nền móng cho một Việt Nam bền vững trong tương lai.
Chúng tôi tìm hiểu địa danh trên vùng ngã ba Bạch Hạc thông qua
việc giải mã các truyền thuyết. Địa danh trên vùng đất này gắn liền với
những hoạt động nông nghiệp trồng lúa nước thời Hùng Vương, gắn với
những giá trị văn hóa tinh thần của con người thời đó. Nội dung truyền
thuyết chính là bức tranh tinh thần của cư dân nơi này và được lưu truyền
trong dân gian cho đến tận ngày nay. Truyền thuyết cũng chính là bức
tranh phản ánh hiện thực cuộc sống. Bởi vây, thông qua việc tìm hiểu địa
danh qua truyền thuyết, người viết muốn dựng lại một phần bức tranh về
cuộc sống và con người vùng đất Tổ để đi đến khẳng định rằng vùng ngã
ba Bạch Hạc chính là kinh đô văn lang xưa thời Hùng Vương, mang đặc
trưng văn hóa thời Hùng Vương. Đó là đặc trưng văn hóa nông nghiệp
trồng lúa nước, văn hóa gắn với buổi bình minh dựng nước, khi mà quan
hệ vua – tôi còn rất gần gũi và thân thiết.
Truyền thuyết bao giờ cũng có cái lõi là sự thực lịch sử và thông
qua những chứng tích lịch sử, người viết muốn khẳng định “cái lõi” của
truyền thuyết. Vùng ngã ba Bạch Hạc là một vùng Việt cổ, nơi hội tụ của
nền văn hoá thời kỳ tiền sử và sơ sử nổi tiếng: văn hoá Sơn Vi, văn hoá
Phùng Nguyên, văn hoá Gò Mun, văn hoá Đông Sơn. Hơn nữa, vùng ngã
ba Bạch Hạc và vùng phụ cận thời kỳ Hùng Vương còn là vùng đất Tổ, là
cái nôi cội nguồn phát tích của văn hoá Việt Nam, dân tộc Việt Nam; nơi
các vua Hùng dựng nước Văn Lang - một nhà nước sơ khai của lịch sử
dân tộc. Đã hàng ngàn năm nay, vùng ngã ba Bạch Hạc luôn là một trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng đất Tổ. Không chỉ có ngã ba Hạc
- một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng của vùng Tây Bắc mà vùng ngã ba
Bạch Hạc còn là một vùng đất đậm đặc các di tích lịch sử văn hoá liên
quan đến thời đại các vua Hùng. Với sự tiếp nối liên tục từ thời đá cũ Sơn
Vi tới di chỉ làng Cả thuộc văn hoá Đông Sơn, vùng ngã ba Bạch Hạc đã
góp phần tạo dựng nền văn minh của người Việt cổ và chiếm một vị trí
đặc biệt trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Nói tới lịch sử dân tộc Việt Nam, không ai có thể phủ nhận văn hoá
đá cũ Sơn Vi và các di chỉ khảo cổ học thời tiền sử - sơ sử gắn liền với
thời đại Hùng Vương trên vùng ngã ba Bạch Hạc. Đó là di chỉ Đồi Giàm,
Gò Tôm, Gò Mã Lao…Đặc biệt là di chỉ làng Cả mang đầy đủ đặc trưng
văn hoá - văn minh thời dựng nước Văn Lang. Cùng với giá trị văn hoá
vật chất qua di tích khảo cổ học còn có hàng loạt các di tích kiến trúc
nghệ thuật thờ tự các vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương.
Đồng thời đây còn là vùng đất chứa đựng các di sản văn hoá phi vật thể
phong phú từ phong tục, tập quán, lễ hội gắn liền với lịch sử thời kỳ
Hùng Vương như tục giã bánh trưng bánh giày, hát xoan, bơi chải… Như
vậy, qua những di tích khảo cổ, những chứng tích có thật thì địa danh trên
vùng ngã ba Bạch Hạc không chỉ có trong truyền thuyết. Đó là những địa
danh có thật, mang trong mình giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn.
Thông qua đó góp phần khẳng định sự tồn tại của một kinh đô Văn Lang
và triều đại các vua Hùng trong lịch sử.
Những địa danh trên thành phố ngã ba sông không chỉ mang trong
mình giá trị văn hoá, lịch sử mà còn ghi dấu quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của một thành phố trẻ trong quá trình hội nhập và phát triển.
Từ một vùng đất hình thành thôn Việt Trì rồi đến thị trấn Việt Trì, thị xã
Việt Trì và đến năm 1962 thành lập thành phố Việt Trì. Trên mảnh đất
này không chỉ có những giá trị văn hoá truyền thống mà còn có những giá
trị văn hoá mới hình thành – những giá trị văn hoá của một xã hội hiện
đại.
Mỗi địa danh đều chứa đựng những nét văn hoá của người Việt cổ.
Bởi vậy, khai thác địa danh là một công việc quan trọng, đòi hỏi công
trình nghiên cứu của nhiều người, đầu tư nhiều thời gian, để khi nói đến
địa danh ta đã có ấn tượng về nét văn hoá trong mỗi địa danh. Nghiên cứu
những tầng văn hoá ẩn sau mỗi địa danh, chúng ta cần phải tìm hiểu một
cách sâu sắc hơn. Khoá luận này chỉ là bước mở đầu cho việc nghiên cứu
địa danh vùng ngã ba Bạch Hạc nói riêng và địa danh Phú Thọ nói chung.
Trong bối cảnh xã hội không ngừng phát triển như ngày nay,
những giá trị văn hóa cũng dần bị mai một, một số địa danh mang giá trị
văn hóa bị mất đi. Bởi vậy, chúng ta cần giữ gìn, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa, những địa danh mang ý nghĩa truyền thống.
Vùng ngã ba Bạch Hạc là địa bàn có vị thế địa quan trọng và một
hệ thống di tích lịch sử văn hoá in dấu thời kỳ dựng nước Văn Lang. Nơi
đây đã sản sinh ra những con người mang trong mình truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh, xây dựng trong suốt trường kỳ lịch sử. Với
những con người ấy, mảnh đất ấy, hôm nay trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vùng ngã ba Bạch Hạc – Việt Trì đang đứng trước cơ hội
chưa từng có về phát triển du lịch. Đó là xu thế hội nhập giao lưu văn hoá
trên thế giới và xu thế tìm về cội nguồn tâm linh của nhân dân cả nước.
Thành phố Việt Trì là trung tâm của tỉnh Phú Thọ - một trong
những cái nôi của loài người. Có nhiều nền văn hoá khảo cổ của Bắc Việt
Nam thuộc thời Tiền sử và Sơ sử đã có vinh hạnh mang tên những địa
danh của Phú Thọ : Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ), Phùng Nguyên, Đồng Đậu,
Gò Mun (Sơ kỳ, Trung kỳ, Hậu kỳ thời đại Đồng thau). Nghiên cứu về
địa danh tỉnh Phú Thọ sẽ là đề tài hấp dẫn và thú vị. Chúng tôi sẽ tìm hiểu
và nghiên cứu về vấn đề này trong những công trình khoa học tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Khoa học xã
hội, H.2004.
2.
Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa thể thao, H.2005
3.
Nguyễn Văn Âu, Địa danh Việt Nam, NXB Giáo dục, H.1993.
4.
Nguyễn Văn Âu, Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia, H.2000.
5.
Vũ Kim Biên, Văn hiến làng xã vùng đất tổ Hùng Vương, Trung
tâm UNESCO thông tin tư liệu và lịch sử văn hoá Việt Nam và sở
VHTT- TT tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ 1999.
6.
Hoàng Thị Châu, Nước Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, số 120, tr 37 - 48
7.
Phan Huy Chú, Hoàng Việt địa dư chí (quyển 1), NXB Thuận Hoá,
TPHCM.1997
8.
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Giaó dục,
H.2007
9.
Thiều Chửu, Hán Việt từ điển, NXB Văn hoá thông tin, H.2002.
10. Trần Trí Dõi, Ba bài viết về địa danh Cổ Loa, Viện Việt Nam học
và khoa học phát triển : 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên
ngành, NXB Thế giới, H.2008, tr 196-229.
11. Trần Trí Dõi, Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong
vùng Hà Nội xưa, Hà Nội – Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa,
NXB Thời đại, H.2010
12. Trần Trí Dõi, Về địa danh Cửa Lò, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3
năm 2000, tr43-46
13. Trần Trí Dõi, Tên gọi của sông Hồng: dấu tích biểu hiện nét đa
dạng văn hoá trong lịch sử người Việt, Hội thảo Quốc tế Việt Nam
học lần thứ 3, Hà Nội 4-7 tháng 12 năm 2008, in trong “Ngôn ngữ
văn hóa Thăng Long - Hà Nội 1000 năm”, NXB Thông tin và
Truyền thông, H.2010, tr 62-76.
14. Phạm Đức Dương, Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á,
NXB Khoa học xã hội, H.2000.
15. Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ (tập 2), NXB Văn hoá, H.1962.
16. Diệp Đình Hoà, Người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ, NXB Khoa học
xã hội, H.2000
17. Đinh Thị Thùy Hiên, Địa danh vùng cửa sông trong nghiên cứu
lịch sử dân tộc (trường hợp Độc Bộ và Giao Thủy),Một chặng
đường nghiên cứu lịch sử (2006 - 2011), tr 61- 86, NXB Thế giới,
H.2011
18. Lê Trung Hoa, Địa danh hành chính ở Việt Nam, Tạp chí xưa và
nay, số 7, tr 11-12
19. Lê Trung Hoa, Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh
(địa danh tp HCM), NXB Khoa học xã hội, HCM.2003.
20. Lê Trung Hoa, Các phương pháp cơ bản trong việc nghiên cứu địa
danh, Tạp chí ngôn ngữ, Số 7, H.2002.
21. Lê Trung Hoa, Địa danh học Việt Nam, NXB Khoa học xã hội,
HCM.2006
22. Đoàn Hải Hưng - Trần Văn Thục - Nguyễn Phi Nga, Những làng
văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc ở tỉnh Phú Thọ, NXB Từ điển
Bách khoa, H.2009
23. Vũ Như Khôi, Nước Văn Lang thời đại vua Hùng đến nước Việt
Nam thời đại Hồ Chí Mnh, NXB Quân đội nhân dân, H.2005.
24. Phạm Thu Yến (chủ biên), Giáo trình văn học dân gian, NXB Đại
học Sư phạm, H.2002.
25. Nguyễn Xuân Lân, Địa danh tỉnh Phú Thọ, NXB Ty văn hoá tỉnh
Phú Thọ, Phú Thọ 1974.
26. Nguyễn Xuân Lân, Địa chí tỉnh Vĩnh Phú, NXB Ty văn hóa tỉnh
Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.1974
27. Lịch sử Đảng bộ thành phố Việt Trì, Việt Trì 1997.
28. Từ Thu Mai, Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án Tiến sĩ khoa
học Ngữ văn, H.2004.
29. Từ Thu Mai, Sự phản ánh các phương diện văn hóa trong địa danh
Quảng Trị, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12, tr 68 - 72
30. Nhiều tác giả, Kỷ yếu kinh đô Văn Lang, NXB Ty Văn hoá Thông
tin Thể thao Vĩnh Phú, Vĩnh Phú 1996.
31. Nhiều tác giả, Việt Trì xưa và nay, NXB Sở Văn hoá Thông tin Thể
thao Phú Thọ - Hội Văn nghệ Dân gian Phú Thọ, Phú Thọ 2001.
32.
Nhiều tác giả, Văn nghê dân gian Việt Trì, NXB Sở Văn hoá
Thông tin Thể thao Phú Thọ - Hội Văn nghệ Dân gian Phú Thọ, Phú
Thọ 2001.
33.
Nhiều tác giả, Di tích lịch sử văn hoá thời đại Hùng Vương trên
đất Việt Trì, NXB Sở Văn hoá Thông tin Thể thao Phú Thọ, Phú
Thọ 2006.
34. Nhiều tác giả, Tổng tập văn nghệ dân gian Đất Tổ (Tập 1, 2), NXB
Sở Văn hoá Thông tin Thể thao Phú Thọ - Hội Văn nghệ Dân gian
Phú Thọ, Phú Thọ 2001.
35. Nhiều tác giả, Hùng Vương dựng nước, NXB Khoa học xã hội,
H.1974
36. Nhiều tác giả, Thời đại Hùng Vương, lịch sử - kinh tế - chính trị văn hóa – xã hội, NXB Văn học, H.2007
37. Ngô Văn Phú (biên soạn, sưu tầm), Hùng Vương và lễ hội Đền
Hùng, NXB Hội nhà văn, H.1996.
38. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004
39. Vũ Quỳnh - Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn học,
H.1990.