Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 132 trang )
đắp và dòng sông sau chảy xoáy mãi vào tạo nên khúc cong như rồng, vắt
mình vào ven rừng cọ gối lên tận chân đồi. “ Vua Hùng thấy đất ấy tốt,
mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước. Vua thấy lúa mọc hoang
nhiều, mới bày cách cho dân giữ hạt, gieo mạ, khi mạ lên xanh thì đem cấy
vào các tràn ruộng có nước. Lúc đầu dân không biết cấy, tìm hỏi vua. Vua
Hùng nhổ cây mạ lên, đem tới ruộng nước, lội xuống cấy cho dân xem.
Mọi người làm theo. Cấy tới mặt trời đứng bóng vua nghỉ tay, cùng mọi
người ăn uống ở dưới gốc đa lớn”(tập1) [34; 109]. Cánh đồng vua dạy dân
cấy lúa sau được đặt tên chữ là Xã Điền, chỗ vua ngồi là Tịch Điền được
dân xây bệ giống như bia tưởng niệm. Phụ lão Minh Nông giải thích: Tịch
Điền vì vua trải chiếu ăn cơm trưa ở chỗ đàn tế Thần Nông, trước có cây
đa cổ thụ. Cũng có ý kiến giải thích theo cách triết tự: Tịch ghi trong văn
cúng bên trái chữ “ lỗi”, bên phải chữ “tích”. “ Lỗi” nghĩa là cái cày bừa, “
tích” là xưa cũ. Tịch Điền là ruộng cày bừa theo sự tích vua Hùng.
Người Minh Nông mãi tự hào vì nơi đây đã sản sinh ra cây lúa –
nơi ngọn nguồn của sự sống. Và cây lúa từ Minh Nông “lan tỏa”, sinh sôi,
phát triển trên khắp Việt Nam. Ngày nay trên đất Minh Nông vẫn còn
truyền tụng bốn câu thơ như niềm tự hào của người dân nơi này:
“Các vua Hùng gieo nắm thóc nơi đây
Buổi dựng nước vua tôi cùng cấy
Làng Minh Nông có tên từ ấy
Hạt thóc xưa gieo giống đến bây giờ”.
Như vậy, truyền thuyết “vua Hùng dạy dân cấy lúa” gắn liền với
tên gọi “Kẻ Sú” – “làng lúa” trước đây và hiện nay là Minh Nông. Ở đây,
rõ ràng truyền thuyết là nội dung được phản ánh thông qua tên gọi. Mối
liên hệ như thế phản ánh “văn hóa” nông nghiệp lúa nước của thời Hùng
Vương dựng nước. Nói một cách khác đi, thời vua Hùng dựng nước đóng
đô ở Phong Châu – Bạch Hạc – Việt Trì, văn minh lúa nước đã hiện hữu
trong đời sống cư dân của nhà nước Văn Lang.
2.2.2 Làng Lâu Thượng và truyền thuyết “hôn nhân thời vua Hùng”.
Tương truyền đây là nơi vua Hùng thứ 18 lập lầu kén rể, lấy chồng
cho con gái út là công chúa Ngọc Hoa. Tại đây, vua Hùng đã chọn được rể
hiền là thần núi Tản Viên, thường được gọi là Tản Viên Sơn Thánh. Theo
các phụ lão có học thức ở Lâu Thượng thì vùng Lâu Thượng là nơi dựng
12 lầu để vợ và con gái vua ở. Về hình thế đất đai, làng Lâu Thượng gần
cung điện nhà vua, đường đi thuận tiện và phong cảnh đẹp. Tên gọi “Lâu
Thượng” ngày nay có phải là cách đọc chệch đi của “lầu phượng” – dấu
tích từ thời xa xưa? Hay nó có nghĩa là “lầu cao” nơi công chúa kén
chồng?. Dù hiểu cách nào đi nữa, địa danh “Lâu Thượng” cũng gắn với
“lầu”, nơi công chúa Ngọc Hoa chọn Thánh Tản Viên.
2.2.3 Thôn Lang Đài (Bạch Hạc) – Nơi gắn với truyền thuyết “đài
thượng võ”
Truyền thuyết kể rằng vua Hùng thứ 18 lập lầu kén rể ở Lâu
Thượng, đài thượng võ được đặt ở Lang Đài. Đây là nơi các chàng trai
đến tỷ thí võ nghệ, phô trương sức mạnh. Vua Hùng dựng đài và cử ba vị
thánh đến trông coi (nay ở xã Diệm Xuân – Vĩnh Tường còn đền thờ một
trong ba vị thánh này). Tại đài thượng võ, Sơn Tinh và Thủy Tinh đã
cùng nhau thi tài mong cưới được công chúa Mị Nương. Mả Trại là nơi
đóng quân của hai vị. Nơi Thủy Tinh đưa ba ba, thuồng luồng giao chiến
với Sơn Tinh là đồi Con Quy (rùa), đồi Xà (con rắn). Nơi Sơn Tinh đưa
quân từ núi xuống đánh nhau với Thủy Tinh nay gọi là làng Mộ Thượng.
Quân Thủy Tinh rút theo đường hạ lưu và vì thế tên làng Mộ Hạ có từ khi
đó. Trong làng hiện nay vẫn còn nhiều tên cổ như Vườn Đồn, Mả Trại,
Cỏ Ngựa, Ao Beo, Hùm Ngọc, Trại Câm… đều có từ thời Hùng Vương.
Chính vì lẽ đó, cái tên Lang Đài xuất phát từ ý nghĩa là nơi “các
chàng trai thi tài kén rể”. Có hai cách lý giải nghĩa của Lang Đài. Thứ
nhất, vì chữ Hán của địa danh này là Lương Đài - có nghĩa là “đài mát”
nên nhiều người cho rằng về sau, do sự chuyển âm trong ngữ âm tiếng
Việt, Lương Đài chuyển thành Lang Đài hiện nay. Sự chuyển âm không
làm nó mất đi nghĩa gốc và vẫn còn tồn tại đến nay. Thứ hai, cũng có thể
giải thích Lang Đài là “đài đấu võ của các lang, tức là những thanh niên
kiệt xuất” thời Hùng Vương. Tuy chữ Hán ghi là Lương Đài nhưng tên
gọi Lang Đài vẫn luôn tồn tại.
2.2.4 Làng Dữu Lâu và hai truyền thuyết “ thời vua Hùng”
Dữu Lâu có tên cổ là làng Dầu, tương truyền là nơi trồng trầu
không (giầu) nổi tiếng thời Hùng Vương. Trầu cau là một trong những
đặc trưng văn hóa người Việt với tục nhuộm răng ăn trầu. Miếng trầu có
mặt trong tất cả lễ hỏi, lễ cưới, hội hè đình đám. Ông bà ta thường có câu:
“ miếng trầu là đầu câu chuyện”…Vườn trầu Dữu Lâu lớn nhất là ở đồng
Cả, đồng Đè Mát và đồi An Miên. Ngày nay, chợ Dữu Lâu vẫn gọi là chợ
Dầu, xuất phát từ địa danh đánh dấu một vùng quê trồng trầu thuở xưa.
Truyền thuyết này có thể gọi là truyền thuyết “trầu cau thời vua Hùng”
Một cách giải thích khác cho rằng Dữu Lâu còn được tạm dịch là
“lầu để của” (chữ Dữu là “kho, vựa”; Dữu Lâu là “nhà kho”). Tên Dữu
Lâu có từ thời Hùng Vương thứ 7. Truyền thuyết kể rằng: sau khi Lang
Liêu làm bánh chưng bánh dầy cung tiến vua cha, được vua Hùng Vương
thứ 6 (Hùng Huy Vương) công nhận là người con hiếu thảo và nhường
ngôi. Khi lên làm vua, Lang Liêu (Hùng Chiêu Vương) đi thị sát để chọn
đất làm kho. Vua đi quanh vùng xem xét thấy nơi thì cao quá, nơi thì thấp
quá, nơi có thể làm được kho thì không thuận lợi cho việc chuyên chở và
phân phát. Khi Người đến đồi Chu Ba và đồi Ổ Rồng, thấy một vùng đất
cao mà bằng phẳng bên cửa sông Lô, đó là đồng Đè Mát. Người nhận thấy
đây đúng là nơi đặt “ lương khố” tốt nhất nên cho lập nên lầu Dữu. Địa
danh Dữu Lâu có từ khi này. Sau đó, để giữ lại dấu tích “ lầu để của”
ngày trước của vua Hùng thứ 7, dân làng về sau đã lập miếu thờ, gọi là
miếu Dữu Lâu. Nơi đó thờ vua Hùng thứ 7 (tức Lang Liêu Đại Vương).
Truyền thuyết này có thể gọi là truyền thuyết “kho lương thời vua Hùng”
Trong hai cách giải thích dựa theo hai truyền thuyết nói trên,
truyền thuyết “trầu cau thời vua Hùng” phản ánh đời sống văn hóa dân
gian của thời dựng nước nhiều hơn. Do đó, chúng tôi nhận thấy tính hợp
lý của truyền thuyết này hơn.
2.2.5 Làng Kim Quất Hạ và truyền thuyết “sản vật thời vua Hùng”
Tương truyền là vùng trồng nhiều quýt thơm ngon nổi tiếng thời
Hùng Vương. Truyền thuyết về làng quýt và cái tên Kim Quất Hạ liên
quan đến thần Đại Nại Cao Sơn được thờ tại đình. Chuyện dân gian kể
rằng: khi vùng đất này chưa có tên, dưới là đầm sâu nước trong văn vắt,
tiếp đến là đồi núi xanh tươi, dân cư thưa thớt sống bằng nghề săn bắt cá
tôm, muông thú và trồng quýt. Mỗi nhà một quả đồi, một vườn quýt, quả
ra tứ thời, trái to, đỏ, mọng nước, mùi thơm ngát.
Vào cuối đời Lạc Long Quân có người con trai thứ của Hùng Hiền
Vương tên là Đại Nại. Đại Nại bản tính nhẫn nại, cần cù, thông tường
thiên văn địa lý, thích du ngoạn sơn thủy. Một ngày tháng 8, khí trời mát
mẻ, cảnh vật tươi vui, Đại Nại du thuyền đó đây từ Bến Gót qua chùa
Hoa Long ngược tới Đầm Sú, vào Đầm Tiên Cát địa đầu là thôn Hương
Lan. Chưa biết đi hướng nào thì một làn gió đưa mũi thuyền về phía Tây.
Khi thuyền dừng lại, nhìn lên đồi núi xanh tươi, cành lá chen nhau, gió
thổi rì rào, Đại Nại hứng khởi đọc luôn hai câu thơ:
“ Sáo đàn hào tấu âm ngàn dặm
Hoa cỏ đan thành sách vạn trăng”
Đại Nại lên bờ, leo lên một ngọn đồi cao ngắm cảnh, trời cao nắng
đẹp song thấy khát nước, người đọc thơ:
“ Vườn quất nhà ai chín đỏ au
Nước non ngàn dặm nước tìm đâu?”
Tiếng ngâm của Đại Nại vọng từ núi này sang núi kia, bỗng có
người con gái cổ cao ba ngấn, má phấn môi son, tóc dài óng mượt bưng
đến một mâm quýt, quỳ trước mặt mà nói rằng:
“ Nước nôi thì có chửa kịp pha
Tiện quýt vàng đây có thiếp hầu”
Đại Nại cầm quả quýt lên ngắm nghía và bẻ đôi đưa quýt lên miệng
ăn, khi đã qua cơn khát bèn đọc tiếp:
“ Quýt ngọt mát lòng cơn khát nước
Lấy gì trả được nghĩa tình sâu”
Người con gái đỡ lấy mâm quýt đáp:
“ Đất này chưa chủ còn hoang dã
Như cánh hoa kia chưa có mầu”
Đại Nại hiểu ý nàng muốn xin một cái tên cho vùng đất này. Người
cười to và ngâm hai câu thơ:
“ Khi khát gặp ngay quả quýt vàng
Thôi thì Kim Quất đặt tên trang”
Và từ đó, làng này có cái tên đẹp đẽ là Kim Quất. Đại Nại xin vua
cha cho phép về mở trang trại ở vùng đất này thành vườn quýt. Vườn
quýt phát triển xuống thôn dưới, gọi là thôn Hạ. Còn nơi Đại Nại ngồi ăn
quýt là thôn thượng, nay gọi là Kim Quất Thượng.
Như vậy. địa danh Kim Quất Thượng hay Kim Quất Hạ là tên gọi
đánh dấu sản vật nổi tiếng của thời Hùng Vượng. Nó cho thấy, cư dân
thời Văn Lang không chỉ trồng lúa (Kẻ Sú) mà cũng đã biết trồng cây ăn
quả (Kim Quất). Nói khác đi, thời Văn Lang, văn hóa nông nghiệp trồng
trọt đã được đánh dấu đầy đủ qua một vài địa danh.
2.2.6 Làng Cẩm Đội và truyền thuyết “đọi đèn chống lụt” của Sơn
Tinh.
Tên làng Cẩm Đội (tên cổ là Kẻ Đọi) xuất phát từ một truyền
thuyết về Tản Viên. Có lần Tản Viên đi dọc sông Thao vào mùa nước
lớn, ghé vào nhà cụ già họ Tạ. Lúc đó nước dâng lên rất to. Cụ già xin
Tản Viên cứu vớt. Tản Viên bảo cụ mời dân làng tới, thắp đuốc đốt đèn
ra bãi sông không cho thủy thần dâng nước lên nuốt bãi bờ. Từ đó có tên
Kẻ Đọi. “ Đọi” là “ đọi đèn” trong đêm chống lụt. Cũng theo truyền
thuyết khác, xưa kia đây là trại lính và là nơi tập luyện quân sĩ của vua
Hùng.
Theo nội dung của truyền thuyết này, địa danh Cẩm Đội (tên nôm
là Kẻ Đọi) đánh dấu nơi Sơn Tinh cùng dân làng đốt đèn chống lụt ban
đêm. Nó phản ánh đời sống cộng đồng của dân cư thời vua Hùng.
2.2.7. Làng Hương Trầm và truyền thuyết “trồng lúa nếp thơm”
Tương truyền là nơi trồng lúa nếp thơm phục vụ cho kinh đô Văn Lang
và các vùng khác. Cái tên Hương Trầm xuất phát từ hương thơm của cây lúa
mà ra.
Như vậy, cũng giống như làng Minh Nông hay Kim Quất nội dung của
truyền thuyết gắn với địa danh Hương Trầm này phản ánh sản vật nông
nghiệp thời Hùng Vương dựng nước.
2.2.8 Phường Bến Gót và truyền thuyết “dấu chân thời vua Hùng”
Địa danh này gắn với hai truyền thuyết. Theo đó, tương truyền rằng
nơi đây có hòn đá in dấu chân của Lạc Long Quân khi đứng tiễn Âu Cơ
đưa 50 người con về núi. Bởi vậy, địa điểm này mới có tên là Bến Gót,
tức hòn đá in dấu chân của Lạc Long Quân.
Tuy nhiên, cũng có thuyết khác cho rằng đó là dấu chân của thần
Thạch Khanh trong cuộc thi tài giữa Thổ Lệnh và Thạch Khanh xem ai
nhảy qua sông trước. Kết quả là thần Thổ Lệnh nhảy qua sông trước nên
được thờ ở đền Bạch Hạc Tam Giang, còn Thạch Khanh được thờ ở đền
Chi Cát. Hiện nay hòn đá ấy đã chìm xuống dòng sông.
Sau đây là câu chuyện kể của dân gian về Thổ Lệnh và Thạch
Khanh: Ngã ba sông Bạch Hạc là cửa ngõ thành Phong Châu. Nơi đây có
hai người là Thổ Lệnh và Thạch Khanh đều có tài chạy nhanh, nhảy xa
mà việc sông nước lại thành thạo. Nguyên có hai ông bà già không con,
một hôm bà ra thăm bãi dâu bên sông nhìn thấy một đàn rắn cuộn tròn
trên đám mây ngũ sắc ở dưới nước. Bà cảm động về thụ thai. Ngày mồng
6 tháng giêng sinh ra bọc hai quả trứng nở ra hai người con trai, đặt tên
là Thổ Lệnh và Thạch Khanh, Cả hai đều theo Hùng Duệ Vương đánh
Thục. Vua Hùng giao cho cầm quân thủy. Sau khi mất cả hai đều được
phong làm thần sông Bạch Hạc. [60; 76])
Khác với những truyền thuyết đã kể ở trên, truyền thuyết địa danh
gắn với địa danh Bến Gót là để nói về « danh nhân » thời vua Hùng. Ở
đây, đó là hai vị thần Thổ Lệnh và Thạch Khanh của vua Hùng Duệ
Vương, hai vị công khanh có công bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nhà
nước Văn Lang.
2.2.9. Ngã ba Hạc (Bạch Hạc) và truyền thuyết “chim hạc trắng”
Ngã ba Hạc là nơi hợp lưu của ba con sông: sông Thao (sông
Hồng), sông Lô, sông Đà. Ba dòng chảy hòa vào làm một để tạo nên một
“vùng biển nội địa” mặt nước mênh mông, sóng xô cuồn cuộn, ngầu đỏ
phù sa. Đời Lê, nơi đây có tên chữ là Tam Giang Khẩu - “cửa ba sông”,
trong dân gian gọi tắt là Ngã ba Hạc. Ở vùng ngã ba sông này còn lưu
truyền bao sự tích in dấu ấn đậm nét trong kho tàng văn hóa dân gian
vùng Đất Tổ. Trong sách Lĩnh Nam chích quái có chép: “ Đất Phong
Châu thời thượng cổ có một cây rất lớn gọi là cây chiên đàn, cao hơn
ngàn nhẫn ( đơn vị đo lường cổ), cành lá rậm rạp, không biết che rợp tới
mấy nghìn dặm, có chim hạc làm tổ ở trên, cho nên gọi đất ấy là Bạch
Hạc…” [39; 51]. Với nội dung của truyền thuyết này, người ta có thể liên
tưởng đến một tư tưởng đã in đâm trong nhận thức dân gian người Việt:
“Đất lành chim đậu” hay “Bách nhạn hồi sào”. Điều này có nghĩa là nơi
Vua Hùng chọn đất Phong Châu để định đô là chọn được nơi đất lành, là
nơi tụ nhân để quốc gia trường tồn vạn thuở.
Về tên gọi Bạch Hạc còn có một truyền thuyết khác như sau: Ở
ngã ba sông trước thành Văn Lang có một rừng cây trong đó có cây chiên
đàn (còn được kể là cây ngô đồng) rất lớn, cành lá xum xuê. Một con hạc
trắng đã thành tinh, thường bay lượn các nơi, bắt người tha về cây chiên
đàn đó để ăn thịt, xương người chất thành đống ở bên sông. Nhà vua rất
lo buồn mà không có cách gì trừ con yêu hạc đó. Một hôm từ dưới sông
hiện lên một chàng trai, xin với nhà vua để mình trị con hạc trắng thành
tinh. Người con trai cầm một chiếc câu liêm sắc bén, rồi tìm đến cây
chiên đàn. Con chim yêu quái từ trên cây bay xà xuống đất, người con
trai cầm câu liêm ngoắc cổ chim, thế là con quái điểu lăn ra chết và người
con trai cũng biến mất. Từ đó, thành Phong Châu của nước Văn Lang yên
ổn.
Như vậy, theo nội dung của truyền thuyết thứ hai, tên gọi “Bạch
Hạc” gắn với chiến công của người dân thời vua Hùng trừ ác yên dân. Ác
ở đây là con hạc trắng thành tinh; người con trai tiêu diệt con hạc trắng
thành tinh là đại diện cho sự chiến thắng của cái nhân. Tuy khác với nội
dung thứ nhất của truyền thuyết nhưng nó vẫn phản ánh nhận thức về tinh
thần của nơi định đô của nhà nước Văn Lang.
2.3 Tiểu kết
Có thể thấy trong kho tàng văn hóa dân gian Đất Tổ có rất nhiều
những truyền thuyết, đặc biệt là truyền thuyết về thời Hùng Vương dựng
nước gắn với “nội dung” của các địa danh nơi đây. Chúng tôi không có
tham vọng đề cập, nghiên cứu tới tất cả các truyền thuyết liên quan đến
địa danh của vùng đất này mà chỉ xin tìm hiểu những truyền thuyết gắn
với những địa danh trên địa bàn vùng ngã ba Bạch Hạc – Việt Trì. Qua hệ
thống những truyền thuyết như thế, rõ ràng, chúng tôi đã và sẽ có được
cách nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về những mặt khác nhau của đời
sống văn hóa thời vua Hùng. Nói cách khác, đó cũng chính là cách thông
qua các địa danh để nhận diện bức tranh văn hóa hay xem xét địa danh
dưới góc độ văn hóa.
Cũng cần nhắc lại rằng, chúng tôi không nghiên cứu những truyền
thuyết này dưới góc độ văn học, không đi sâu phân tích những giá trị về
nghệ thuật, nội dung của truyền thuyết. Chỉ xin lưu tâm tới những giá trị
văn hóa – tinh thần của địa danh qua những truyền thuyết đó. Qua nhiều
truyền thuyết gắn với những địa danh trên vùng ngã ba Bạch Hạc, ta thấy
rằng phần lớn những địa danh, những truyền thuyết đều gắn với thời các
vua Hùng. Qua những địa danh, truyền thuyết này, ta có cách nhìn cụ thể
hơn về thời kỳ bình minh của lịch sử. Nó phản ánh đầy đủ về các mặt văn
hóa như trồng trọt (trồng lúa, trồng quất), phong tục (cây trầu với tục ăn
trầu, kén rể), chinh phục thiên nhiên (đốt đèn chống lụt), bảo vệ đất nước
(Thổ Lệnh...) và cả tinh thần tức là phản ánh tâm linh của cư dân (Bạch
Hạc) v.v. Những truyền thuyết này không phải chỉ là hư cấu bởi nó một
phần phản ánh cuộc sống, phản ánh lịch sử, phản ánh những tâm tư, tình
cảm của người dân. Qua những chứng cứ khảo cổ học, ta có thể chứng
minh được rằng có tồn tại thời đại Hùng Vương trong lịch sử. Trong thời
kỳ đó, mối quan hệ giữa vua – tôi vẫn còn rất gần gũi. Vua cũng có
ruộng, có kho thóc, vua cùng cày cấy với nhân dân.
Những địa danh còn tồn tại tới ngày nay gắn liền với các truyền
thuyết là một minh chứng cho điều đó. Dấu tích kinh đô xưa còn được
lưu truyền đến tận hôm nay một phần cũng nhờ nội dung được thể hiện ở
những địa danh này.
Chương 3
BẠCH HẠC: BỨC TRANH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ QUA ĐỊA
DANH
3.1 Khái niệm về văn hoá dùng để tác nghiệp
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Chúng tôi xin đưa
ra một định nghĩa chung nhất về văn hoá của UNESCO như sau : “Văn
hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và
vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của
một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng . Văn hoá đem lại
cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho
chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự
thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa
hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình
vượt trội lên bản thân.” [57; 23]
Như vậy, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hoá là
tổng thể nói chung các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Văn hoá là chìa khoá của sự phát triển.
Nghiên cứu địa danh trên vùng ngã ba Bạch Hạc, chúng tôi muốn
tìm hiểu những giá trị vật chất và tinh thần ẩn sau mỗi địa danh thông qua
nhận thức về văn hóa theo định nghĩa đó.
3.2. Địa danh những di tích khảo cổ
Các nhà nghiên cứu tiền sử Việt Nam đều nhất trí cho rằng nhiều di
tích khảo cổ học mà chúng ta biết đến trên vùng ngã ba Bạch Hạc ngày
nay đều thuộc thời kỳ văn hoá tiền sử (Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun - Đông Sơn). Trong những di tích đó nổi bật là di chỉ khảo cổ học
tiêu biểu cho nền văn hoá Đông Sơn: di chỉ Làng Cả.
Con người dưới thời kỳ văn hoá tiền sử là cư dân nông nghiệp,
sống định cư và làm ruộng ven các chân đồi mà họ cư trú, thức ăn chủ
yếu là các sản vật trong vùng, về sau mới có sự kết hợp giữa trồng trọt và
chăn nuôi gia súc. Các di tích khảo cổ học ở Phú Thọ nói chung và ở
vùng ngã ba Bạch Hạc nói riêng đều chứa đựng trong đó nhiều hiện vật
tiêu biểu có giá trị, phản ánh khá đầy đủ và xuyên suốt đời sống kinh tế,
văn hoá, xã hội của con người thời kỳ dựng nước Văn Lang.
Các di tích khảo cổ học ở vùng ngã ba Bạch Hạc là một minh
chứng quan trọng góp phần làm sáng tỏ và khẳng định thời đại Hùng
Vương với kinh đô Văn Lang đã từng tồn tại cách ngày nay khoảng 2500
năm trước. Những thông tin về kinh đô Văn Lang được nhận biết thông
qua “nội hàm” của những địa danh có di chỉ khảo cổ ở nơi đây. Và chúng
tôi sẽ lần lượt trình bày những thông tin ấy qua những địa danh sau đây.
3.2.1 Di chỉ Đồi Giàm thuộc xã “Lâu Thượng”
Tên gọi phổ thông : Đồi Giàm
Địa điểm, phạm vi phân bố: nằm trong địa phận xã Lâu Thượng,
thành phố Việt Trì
Niên đại khảo cổ: thuộc giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên
Nội dung khảo cổ: Qua các lần thám sát, khai quật 60m2 ở Đồi
Giàm, có ba hố khai quật đào sâu xuống lớp đất cái, thu được những bộ
hiện vật đá: rìu, đục, hoa tai, hạt chuỗi…được chế tác với kỹ thuật cao,
điển hình cho văn hoá Phùng Nguyên. Trong hố khai quật đã thu được
5679 mảnh gốm, gồm 2526 mảnh không có hoa văn, chiếm 44.5%. Trong
số các mảnh có hoa văn thì gốm vặn thừng là nhiều hơn cả (2366 mảnh