Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 132 trang )
Các nhà nghiên cứu tiền sử Việt Nam đều nhất trí cho rằng nhiều di
tích khảo cổ học mà chúng ta biết đến trên vùng ngã ba Bạch Hạc ngày
nay đều thuộc thời kỳ văn hoá tiền sử (Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun - Đông Sơn). Trong những di tích đó nổi bật là di chỉ khảo cổ học
tiêu biểu cho nền văn hoá Đông Sơn: di chỉ Làng Cả.
Con người dưới thời kỳ văn hoá tiền sử là cư dân nông nghiệp,
sống định cư và làm ruộng ven các chân đồi mà họ cư trú, thức ăn chủ
yếu là các sản vật trong vùng, về sau mới có sự kết hợp giữa trồng trọt và
chăn nuôi gia súc. Các di tích khảo cổ học ở Phú Thọ nói chung và ở
vùng ngã ba Bạch Hạc nói riêng đều chứa đựng trong đó nhiều hiện vật
tiêu biểu có giá trị, phản ánh khá đầy đủ và xuyên suốt đời sống kinh tế,
văn hoá, xã hội của con người thời kỳ dựng nước Văn Lang.
Các di tích khảo cổ học ở vùng ngã ba Bạch Hạc là một minh
chứng quan trọng góp phần làm sáng tỏ và khẳng định thời đại Hùng
Vương với kinh đô Văn Lang đã từng tồn tại cách ngày nay khoảng 2500
năm trước. Những thông tin về kinh đô Văn Lang được nhận biết thông
qua “nội hàm” của những địa danh có di chỉ khảo cổ ở nơi đây. Và chúng
tôi sẽ lần lượt trình bày những thông tin ấy qua những địa danh sau đây.
3.2.1 Di chỉ Đồi Giàm thuộc xã “Lâu Thượng”
Tên gọi phổ thông : Đồi Giàm
Địa điểm, phạm vi phân bố: nằm trong địa phận xã Lâu Thượng,
thành phố Việt Trì
Niên đại khảo cổ: thuộc giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên
Nội dung khảo cổ: Qua các lần thám sát, khai quật 60m2 ở Đồi
Giàm, có ba hố khai quật đào sâu xuống lớp đất cái, thu được những bộ
hiện vật đá: rìu, đục, hoa tai, hạt chuỗi…được chế tác với kỹ thuật cao,
điển hình cho văn hoá Phùng Nguyên. Trong hố khai quật đã thu được
5679 mảnh gốm, gồm 2526 mảnh không có hoa văn, chiếm 44.5%. Trong
số các mảnh có hoa văn thì gốm vặn thừng là nhiều hơn cả (2366 mảnh
chiếm 41.7%), hoa văn khắc vạch có 787 mảnh (chiếm 13.8%). Đặc biệt
chú ý có 72 mảnh có đồ án tổ hợp chấm dải chữ S đứng chiếm 1.2% tổng
số mảnh và có 9% số mảnh gốm có hoa văn khắc vạch. Đây là loại đồ án
khá ổn định từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối phát triển của văn hoá
Phùng Nguyên.
Ở Đồi Giàm có sự chuyển biến văn hoá từ các lớp dưới đến các lớp
trên. Sự chuyển biến này ít thấy rõ ở các hoa văn nhưng có thể phần nào
theo dõi sự chuyển biến này qua việc nghiên cứu các kiểu miệng gốm.
Ngoài một số kiểu miệng gốm bóp vào, có gờ ngoài, chỉ có mặt ở các lớp
dưới, vắng mặt hoàn toàn ở các lớp trên, có một số kiểu miệng loe ra, có
tỷ lệ tăng dần từ lớp dưới lên lớp trên.
Di chỉ khảo cổ học Đồi Giàm về cơ bản vẫn là một nơi ở của cư
dân Phùng Nguyên. Việc nghiên cứu Đồi Giàm đã làm sáng rõ thêm một
khâu quan trọng trong các bước phát triển của văn hoá Phùng Nguyên
(một di sản thời kỳ tiền Hùng Vương).
Hiện nay, đồi Giàm vẫn là một quả đồi bát úp, di chỉ vẫn còn tương
đối nguyên vẹn. Với tên gọi Giàm, về mặt bản chất, đây là một tên gọi cổ
xưa mang tính chất thuần Việt. Những hiện vật khảo cổ ở đây rõ ràng
phản ánh một đời sống cư dân thời văn hóa Phùng Nguyên, nơi có “Lâu”,
tức là “nhà để ở”. Có thể nói, sự nhận diện các đồ vật văn hóa ở đây đã
chứng tỏ truyền thuyết “nơi kén rẻ” liên quan đến địa danh Lâu Thượng
của công chúa Ngọc Hoa là “hiện thực”. Nếu không làm sao những đồ vật
văn hóa Phùng Nguyên ấy còn lưu giữ được đến ngày hôm nay.
3.2.2 Di chỉ Gò Mã Lao thuộc giai đoạn văn hoá Đồng Đậu
Tên gọi phổ thông : gò Mã Lao
Địa điểm, phạm vi phân bố : thuộc xã Minh Nông, thành phố Việt
Trì.
Thời gian phát hiện : 1-9-1974. Gò nằm giữa cánh đồng chiêm
trũng, cách sông Hồng khoảng 200m, rộng trên một mẫu.
Niên đại khảo cổ : thuộc giai đoạn văn hoá Đồng Đậu
Nội dung khảo cổ. Ở các hố thám sát phía Tây Bắc, tầng văn hoá
chỗ mỏng nhất: 0.40m, chỗ dày nhất: 0.58m. Trong quá trình thám sát thu
được 4000 mảnh gốm , trong đó gốm kiểu Gò Mun chiếm 98.6%, kiểu
Đường Cổ chiếm 1.04%, có hơn 20 mảnh gốm trang trí hoa văn kiểu
Đồng Đậu, nhiều cục xỉ đồng, dây đồng và bàn mài bằng sa thạch, đá ráp.
Trong hố thám sát ở góc Đông Nam của di chỉ, tầng văn hoá dày 2.86m,
thu được một số nồi cùng nhiều mảnh gốm kiểu Gò Mun và một rìu tứ
giác.
Những người thám sát cho rằng Mã Lao là một di chỉ có dấu tích
văn hóa của nhiều giai đoạn từ Đồng Đậu đến Gò Mun, Đông Sơn.
Về địa danh, có thể nghĩ gò Mã Lao cũng là một địa danh thuần
Việt mà chúng ta chưa giải thích được ý nghĩa của nó. Nhưng địa danh
này thuộc xã Minh Nông nên nó nói lên điều gì? Khi phân tích địa danh
Minh Nông ở trên, chúng ta biết nơi đây là vùng “trồng lúa” của thời
Hùng Vương. Những hiện vật tìm thấy nơi đây rõ ràng gắn liền với đời
sống của cư dân trồng lúa. Vậy là, những hiện vật của di chỉ có tên gọi
Mã Lao đã phản ánh một đời sống phong phú của cư dân thời Đông Sơn.
3.2.3 Di chỉ Gò Gai thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Tên gọi phổ thông: Gò Gai. Tên gọi khác: Bờ Lệ, Lòng Cây Đề, gò
Dinh hay bãi Dưới.
Địa điểm, phạm vi phân bố: thuộc xã Thuỵ Vân, thành phố Việt
Trì. Di chỉ được khai quật năm 1972.
Niên đại khảo cổ: thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Nội dung khảo cổ: Di chỉ được khai quật với diện tích 50m2, thu
được 1 rìu đồng, 1 rìu đá và 5 khuyên tai bằng đá cùng hàng vạn mảnh
gốm. Đầu năm 1973, khai quật 2000m2 gồm 3 hố.
Trong di tích đã tìm thấy dấu vải mịn in trên mặt gốm nung chín,
những hạt thóc cháy và hầm chứa ngũ cốc, các di cốt động vật như lợn
rừng, trâu bò rừng, hươu nai, xương cá, xương của các loài bò sát, đặc
biệt có xương của vật nuôi như lợn nhà.
Gò Gai là di chỉ cư trú chỉ có một tầng văn hoá, thuộc giai đoạn
giữa của văn hoá Gò Mun hoặc giai đoạn muộn của văn hoá Gò Mun.
3.2.4 Di chỉ Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Tên gọi phổ thông: gò Tro Trên và gò Tro Dưới
Địa điểm, phạm vi phân bố : thuộc thôn Phú Hậu, xã Thụy Vân,
thành phố Việt trì
Niên đại khảo cổ học : thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Nội dung khảo cổ : Hiện vật trong hố thám sát đều là đồ gốm : 11
mảnh miệng, 248 mảnh thân và 27 mảnh đáy. Đây là những mảnh vỡ ra
từ nồi, vò, bình, bát, chậu và chân chạc.
Đây là di chỉ có diện tích không rộng lắm, có một tầng văn hoá,
phản ánh di tích cư trú, thuộc thời đại đồng thau.
3.2.5 Di chỉ Gò Con Cá thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Tên gọi phổ thông : gò Con Cá
Địa điểm, phạm vi phân bố : thuộc thôn Phú Hậu, xã Thuỵ Vân,
thành phố Việt Trì.
Niên đại khảo cổ : thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun.
Nội dung khảo cổ : Di chỉ được đào thám sát 1m2 vào năm 1972.
Tầng văn hoá phân bố đều trên gò, dày 0.30m. Hiện vật thám sát có 1 bàn
mài và 133 mảnh gốm, hầu hết thuộc loại có miệng loe gãy, loe xiên và
trang trí hoa văn. Về hoa văn, trang trí rất giống gò Tro Trên, Tro Dưới
và Gò Gai.
3.2.6 Di chỉ Gò Thế thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Tên gọi phổ thông : gò Thế
Địa điểm, phạm vi phân bố: thuộc xã Thuỵ Vân, thành phố Việt
Trì. Thời gian phát hiện: 17-3-1972.
Niên đại khảo cổ: thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun
Nội dung khảo cổ Tại đây cán bộ phòng Văn hoá huyện Lâm
Thao, sau đó là cán bộ viện Khảo cổ học đã nhặt được mảnh gốm, bàn
mài và khuyên tai đá. Gốm có độ nung tương đối cao, áo vàng nhạt,
xương xám đen. Di chỉ đã bị đào phá để đắp bờ kênh. Do vậy có thể ghi
nhận là nơi cư trú của người thời Gò Mun qua một số đồ gốm còn lại trên
vách đào và đất đắp ở trên bờ kênh gần đó. Có thể thấy những di chỉ khảo
cổ này phản ánh giai đoạn văn hoá Gò Mun.
Về mặt địa danh, chúng ta thấy rằng cả gò Gai lẫn gò Tro Trên, gò
Tro Dưới, gò Thế. gò Con Cá đều là những địa danh thuần Việt, giống
như những trường hợp đã nói ở trên. Tuy nhiên, ở đây chúng ta có thể
giải thích được ý nghĩa của một vài địa danh. Hơn nữa, những địa danh
này đều thuộc xã Thụy Vân nơi mà cư dân Đông Sơn tập trung sinh sống.
Khi phân tích địa danh Minh Nông ở trên, chúng ta biết nơi đây là vùng
“trồng lúa” của thời Hùng Vương. Rõ ràng những hiện vật tìm thấy nơi
đây gắn liền với đời sống của cư dân nông trồng lúa, mà cụ thể là nơi
“nấu nướng” của cộng đồng. Trong tình hình như vây, địa danh gò Tro
hay gò Con Cá đã gợi nhớ đến một đời sống phong phú của cư dân nông
nghiệp lúa nước thời tiền Đông Sơn.
3.2.7 Di chỉ Gò Tôm thuộc giai đoạn văn hoá Đông Sơn.
Tên gọi phổ thông: gò Tôm. Tên gọi khác: gò Hình Nhân.
Địa điểm, phạm vi phân bố : thuộc xóm Phú Thịnh, xã Minh
Phương, thành phố Việt Trì. Phát hiện ngày 20-5-1975. Gò có hình con
tôm, nằm giữa đồng nước, diện tích trên 2 mẫu. Tầng văn hoá tập trung
trên hai đầu phía Đông và phía Tây.
Niên đại khảo cổ : thuộc giai đoạn văn hoá Đông Sơn.
Nội dung khảo cổ : Hiện vật thu lượm được gồm có đá và gốm. Đá
gồm có rìu đá mài nhẵn bốn mặt, đá mài hình dẹt còn vết mài bằng và
mài thành rãnh nhỏ. Gốm gồm có loại màu hồng, màu trắng và màu đen.
Có loại gốm thô, gốm bở, có nhiều hạt lổn nhổn. Có loại cứng, miết nhẵn
cả mặt trong và mặt ngoài. Thân gốm bên ngoài trang trí hoa văn chải thô
hoặc chải nhỏ, gần cổ và miệng trang trí hoa văn chấm tròn.
3.2.8 Di chỉ Gò Hào thuộc văn hoá Đông Sơn
Tên gọi phổ thông : Gò Hào, tên gọi khác gò Ảnh.
Địa điểm, phạm vi phân bố : thuộc thôn Quất Thượng, xã Trưng
Vương. Phát hiện ngày 2/9/1975
Niên đại khảo cổ: thuộc giai đoạn văn hoá Đông Sơn
Nội dung khảo cổ : Các hiện vật thu được:
Đá gồm rìu mài nhẵn 4 mặt và đá mài hình dẹt còn dấu vết mài
bằng.
Đồng gồm mảnh đồng, mặt cắt hình bầu dục, một đầu bằng, một
đầu bị gãy, bên trong rỗng
Gốm: có loại màu hơi hồng, có loại màu đen. Có loại gốm thô, bở,
có nhiều hạt cát lổn nhổn. Có loại cứng, miết nhẵn cả mặt trong và mặt
ngoài. Thân gốm bên ngoài có loại không trang trí, có loại trang trí vặn
thừng, một số ở cổ có hoa văn gạch nghiêng hay hai hàng chấm tròn chạy
xung quanh.
3.2.9 Di chỉ Làng Cả - di chỉ lớn nhất của văn hóa Đông Sơn
Những di chỉ khảo cổ học mà chúng tôi nêu trên chỉ mang tính chất
thống kê. Chúng tôi xin đi sâu tìm hiểu di chỉ khảo cổ học ở Làng Cả.
Đây được coi là di chỉ lớn, có tầm quan trọng đặc biệt và chứa đựng
nhiều giá trị văn hóa – lịch sử.
Di tích khảo cổ học Làng Cả - đây là tên của một làng, trước đây
thuộc xã Tiên Cát, tên nôm là kẻ Gát, sau được đổi thành xã Chính
Nghĩa, thành phố Việt Trì. Ngày nay, địa điểm khu di tích Làng Cả nằm
ngay giữa nhà máy mì chính và công ty hóa chất Việt Trì. Toàn bộ khu di
tích có chiều dài 1200m, rộng 1000m. Theo truyền thuyết và sử sách ghi
chép lại thì vùng này xưa kia được vua Hùng chọn làm kinh đô của nước
Văn Lang.
Khu di tích khảo cổ học làng Cả nằm cách cầu Việt Trì theo đường
quốc lộ khoảng 4,6 km; cách đền Hùng 10km, nằm ngay bên bờ tả ngạn
sông Hồng. Ngược dòng sông Hồng lên phía thượng lưu, cách địa điểm
Làng Cả 5 - 6km đã phát hiện được nhiều địa điểm khảo cổ học quan
trọng, tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển của lịch sử Hùng Vương như
văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun. Đặc biệt ngay trên mảnh đất
cố đô Văn Lang, nơi tụ hội “con rồng cháu tiên” đã phát hiện những di
tích buổi đầu dựng nước như gò Tôm, xóm Phú Thạch xã Minh Nông –
nơi vua Hùng dạy dân cấy lúa, làm ruộng, là nơi vua thường nghỉ và ngự
tại đó.
Kết quả thám sát và khai quật cho thấy di tích Làng Cả rất lớn, chủ
yếu phân bố ở phía Nam và đỉnh gò, tập trung nhất là ở khu nhà máy Mì
Chính và khu vực giữa nhà máy Mì Chính và nhà máy Hóa Chất, ước tính
dài khoảng 900m, rộng khoảng 300m. Giaó sư Hoàng Xuân Chinh đã
nhận định : “ Cho đến nay, có thể nói Làng Cả là khu di tích văn hóa
Đông Sơn lớn nhất hiện biết” [30; 52]. Khu di tích khảo cổ học làng Cả
được phát hiện năm 1959. Từ đó tới nay, tại đây đã diễn ra ba lần khai
quật và thám sát vào những năm 1976, 1977 và năm 2005-2006. Số hiện
vật thu được tại đây rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào số hiện vật thu
được, ta có thể khẳng định địa điểm khảo cổ học làng Cả bao gồm hai
loại di tích: di tích cư trú và di tích mộ táng. Di tích cư trú trước và sau đó
là di tích mộ táng. Việc khẳng định có tồn tại một khu di chỉ cư trú ở đây
có ý nghĩa rất quan trọng. Nó cho ta biết mối liên hệ chặt chẽ giữa khu di
tích cư trú này với khu mộ táng tồn tại sau nó. Sau dấu vết của khu di tích
cư trú là khu mộ táng, nghĩa là khu mộ táng đã thay thế vị trí của khu di
tích cư trú.
Hai lần khai quật và thám sát (năm 1976 và 1977), chúng ta đã đào
được 6.600m2 ( diện tích lớn nhất từ trước đến nay), phát hiện thấy 307
mộ văn hóa Đông Sơn, 7 mộ táng mang phong cách văn hóa Hán. [30;
52]
Di chỉ cư trú mà vết tích còn để lại là tầng văn hóa dầy khoảng 0,60 –
0,80m; ở khu vực rặng nhãn và trong nhà máy Mì Chính. Trong đồ gốm của
di chỉ cư trú, chúng ta thấy có mặt gốm “ Đường Cổ” là loại gốm có màu
trắng ngà, mịn, bên ngoài trang trí hoa văn in dây thừng tạo thành những
hình tứ giác lớn hoặc những chỗ lồi lõm mà chúng ta thường gọi là hoa văn
“ Nhăn tàn ong”. Loại gốm này xuất hiện tương đối muộn, sau văn hóa Gò
Mun.
Mộ táng Đông Sơn ở làng Cả phân bố dày đặc, có một số mộ cấu
trúc gần giống nhau. Đây là loại mộ đất, huyệt hình chữ nhật, đào sâu
xuống lớp đất chỉ khoảng 0,40-0,60 m; dài trung bình 2m; rộng 0,5m.
Phần lớn mộ được chôn theo hướng Tây Bắc. Phần nhiều xương cốt bị
mủn nát, qua dấu vết xương còn lại và cách sắp xếp đồ tùy táng, có thể
nghĩ rằng người chết được chôn theo tư thế nằm ngửa, duỗi thẳng. [30;
52-53]
Đồ tùy táng tương đối phong phú về số lượng cũng như loại hình.
Ngoài những mảnh vỡ với số lượng hàng ngàn, chủ yếu là đồ gốm, ta đã
thu lượm được 217 hiện vật trong đó chủ yếu là đồ đồng ( 186 chiếc,
chiếm 85,7%), đồ đá ( 11 chiếc, chiếm 5.07%) và 20 đồ gốm ( chiếm
9,23%). Đồ đồng gồm có công cụ sản xuất như rìu, thuổng; vũ khí như
giáo, dao găm; đồ đựng như âu, thạp; đồ trang sức như vàng ống, vàng
lòng máng; nhạc khí như trống đồng minh khí, chuông; đồ thường dùng
như khóa, thắt lưng, dao khắc. Trong đó số lượng lớn hơn cả là rìu và giáo.
Rìu có tới 68 chiếc. Ngoài rìu xòe cân, rìu xéo gót tròn, đáng chú ý ở đây
đã tìm được nhiều loại rìu có gót vuông hình hia và rìu xéo gót vuông hình
bàn chân, một số đường trang trí hoa văn hình thuyền, người và hươu, chó.
Cho đến nay, Làng Cả là di tích tìm được nhiều rìu xéo gót vuông nhất (42
chiếc) trên đất nước ta. Giáo có tới 62 chiếc, ngoài các loại thường gặp
trong văn hóa Đông Sơn, ở đây có chiếc phần họng được xẻ đôi hình đuôi
cá, có chiếc hai bên mặt lưỡi được trang trí những hình tam giác lồng nhau.
Dao găm chủ yếu là loại không có đốc, chắn tay ngang lưỡi hình tam giác,
có chiếc lưỡi được trang trí hoa văn hình móc. Về đồ trang sức, đáng chú ý
có chiếc vòng ống, trên bản vòng trang trí hoa văn và đính những móc nhỏ
để treo nhạc đồng. Những chiếc vòng ống này cũng đã được biết đến ở khu
mộ Làng Vạc ( Nghệ An).[30; 53-54]
Âu đồng cũng có bốn chiếc, chủ yếu là hai bụng nở, có hai quai
đeo ở hai bên thành miệng, có chiếc được gắn thêm ba chân thấp. Loại
âu này phổ biến ở vùng Hoa Nam thời chiến quốc và tồn tại cho đến thời
Tây Hán. Bộ khóa thắt lưng duy nhất thấy ở đây được thể hiện khá độc
đáo, gồm hai mảnh đúc nổi hình tám con rùa và những đường xoáy ốc.
Đáng chú ý hơn cả là trong một ngôi mộ đã phát hiện được một
chiếc trống đồng minh khí Đông Sơn. Trống đồng tuy nhỏ, song nó thuộc
loại di vật biểu tượng của nền văn minh Việt cổ.
Đồ đá ở đây chủ yếu là khuyên tai và hạt chuỗi hình ống, cùng một
khuôn đúc đồng.
Đồ gốm ngoài đồ đựng, đun nấu như nồi, vò, bình, bát, đáng chú ý
là năm khuôn đúc và nồi nấu đồng. Đó là khuôn đúc các loại rìu xéo gót
vuông, giao găm, giáo và chuông.
Làng Cả trước khi được sử dụng làm mộ địa đã là một khu cư trú
của cư dân Đông Sơn. Những phát hiện này đã nâng làng Cả - Việt Trì
lên vị trí những di tích quý nhất của văn hóa Đông Sơn, có thể sánh
ngang với chính di chỉ Đông Sơn và cận Đông Sơn, đó là di chỉ Thiệu
Dương bên bờ Sông Mã (Thanh Hóa). [30; 54-55]
Di tích làng Cả với số lượng lớn mộ táng cùng sự phong phú của
đồ tùy táng với những phong cách khác nhau, là tư liệu vô cùng quý giá
để tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội cùng vai trò của làng Cả đương thời.
Tất cả các ngôi mộ đều có huyệt mộ hình chữ nhật. Trong một số ngôi
mộ còn có đinh, chứng tỏ những ngôi mộ có cả quan tài gỗ.
Hiện vật phân bố không đều trong các ngôi mộ: có mộ chôn theo
nhiều hiện vật, có mộ chôn ít hiện vật, có mộ hầu như không chôn theo
hiện vật nào. Hiện tượng này phản ánh sự phân hóa giàu nghèo của xã hội
bấy giờ đã diễn ra. Dựa vào số lượng đồ tùy táng nhiều ít, các nhà khảo
cổ học đã phân ra loại mộ rất nghèo, mộ nghèo và mộ giàu. Đại đa số
những ngôi mộ ở đây thuộc về người nghèo.
Một hiện tượng đáng lưu ý là khu mộ này có tỷ lệ đồ tùy táng là vũ
khí lớn nhất từ trước đến nay. Số lượng vũ khí chiếm 56% đồ túy táng,
chủ yếu là vũ khí đánh gần. Hiện tượng phong phú vũ khí chôn trong các
mộ, phải chăng phản ánh cuộc sống có nhiều biến động lúc bấy giờ và
những người chiếm hữu nhiều tài sản nhất cũng là những thủ lĩnh quân
sự.
Ở ngôi mộ số 42 khai quật năm 1966 đã phát hiện bốn khuôn đúc
đồng hai mang cùng một nồi nấu đồng và lót đồng. Phải chăng, xã hội lúc
bấy giờ đã hình thành một số người chuyên nghề đúc đồng. Qua đó ta có
thể hình dung đời sống của cư dân Làng Cả ngày xưa. Trên cơ sở một số
nền nông nghiệp ổn định, sản xuất lương thực dồi dào, một số người tách
khỏi nông nghiệp để hoạt động thủ công nghiệp mà tiến bộ hơn cả là nghề
luyện kim. Chính trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và luyện kim đã
tạo ra của cải thừa, thúc đẩy sự phân hóa xã hội sâu sắc.
Trong các hiện vật bằng đồng thau được phát hiện, rìu và giáo
nhiều nhất. Vũ khí là phương tiện chiến tranh, cho nên có thể nói hầu hết
những ngôi mộ chôn theo vũ khí là mộ các chiến binh. Chắc chắn xã hội
đương thời có quan hệ chặt chẽ với chiến tranh.
Với vị trí thuận lợi nằm ở nơi hợp lưu ba con sông, làng Cả là một
trung tâm kinh tế lớn, là đầu mối giao lưu kinh tế - văn hóa lúc bấy giờ. Bộ
di vật đồ đồng và đồ gốm làng Cả đã phản ánh mối giao lưu kinh tế - văn
hóa đó.
Trong số hiện vật đồng thau, có một số hiện vật phản ánh mối giao
lưu văn hóa giữa khu vực này với khu vực phía Nam Trung Quốc. Kiếm
là hiện vật thể hiện rõ ràng hơn cả mối giao lưu văn hóa này. Những lưỡi
kiếm ngắn tìm thấy trong các ngôi mộ ở làng Cả rất phổ biến trong các
ngôi mộ ở Thạch Trại Sơn, Lý Gia Sơn (Vân Nam). Những lưỡi kiếm
ngắn này không những giống nhau về hình loại mà còn giống nhau cả về
những chi tiết hoa văn trang trí trên đó. Trong ngôi mộ số 42 có một
khuôn đúc chuôi kiếm ngắn loại này. Điều này chứng tỏ các loại kiếm
ngắn cũng đã được đúc tại chỗ. [30; 58]
Riêng ở mộ số 82 làng Cả, ta thấy hoàn toàn là hiện vật nhỏ như
trống, chuông, rìu… Tất cả những hiện vật này hầu như giống hiện vật ở
Thiệu Dương. Đặc biệt, mộ 82 là mộ duy nhất chôn theo chiếc trống nhỏ.
Đó là bằng chứng rõ ràng về mối giao lưu giữa làng Cả với khu vực Bắc
Trung Bộ trong thời đại xa xưa.
Trong đợt khai quật năm 2005, các nhà khoa học còn đào được một
ngôi mộ thời Bắc thuộc, phát lộ một cấu trúc mộ gạch, có khả năng là
kiến trúc “ mộ đạo” tức lối vào mộ với vật liệu xây dựng là những viên
gạch có hình ô trám lồng. Đợt khai quật này còn tìm được ba mộ táng
thời phong kiến độc lập tự chủ với cách chôn cất của cư dân văn hóa
Đông Sơn. Có thể niên đại của những mộ này vào khoảng thời Trần, hậu
Lê. Ngoài ra, ngôi mộ gạch mới xuất lộ có niên đại khoảng đầu công
nguyên.
Kết quả khai quật mộ cho thấy đây không chỉ là một khu mộ lớn
thời Hùng Vương mà còn là khu mộ của những thời đại sau này. Chứng
tỏ đây là một trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa sầm uất và có tính
liên tục: thời Hùng Vương - thời Bắc thuộc - thời phong kiến tự chủ.