Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 126 trang )
2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn
2.1.2.1. Thuận lợi
Cũng như các hình thức nghệ thuật khác, văn chương là hoạt động của con
người nhằm chiếm lĩnh thực tại “theo quy luật của cái đẹp” (Mác). Thế giới nghệ
thuật luôn đầy ắp những rung động mãnh liệt, kết quả của những “hiểu biết,
khám phá, sáng tạo” (Phạm Văn Đồng). Giờ dạy tác phẩm thơ trữ tình nếu không
làm nổi bật lên cái đẹp, không gắn liền với cảm xúc , không tạo nên những rung
động trong tâm hồn thì sẽ đánh mất bản chất của văn chương, trái với quy luật
cảm thụ nghệ thuật. Chúng ta vẫn có thể dạy và học thành công văn bản thơ trữ
tình bởi có những thuận lợi sau đây:
Đối với người học: Kiến thức lí luận về thể loại của học sinh còn khá mơ
hồ nên các em chỉ tiếp nhận tác phẩm một cách trực quan, cảm tính, dựa vào ấn
tượng và kinh nghiệm của cá nhân là chủ yếu. Hầu như các em quan niệm về thơ
một cách đơn giản như thơ phải có vần, có nhịp…; hoặc truyện có nhân vật, cốt
truyện, diễn biến, tình huống…; còn với những đặc trưng khác của thơ dường
như chưa có hiểu biết cần thiết. Việc học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại theo đặc
trưng thể loại chính là chìa khoá để học sinh biết cách khám phá cái hay, cái đẹp
của tác phẩm, đồng thời phân biệt được ranh giới giữa đặc trưng của thơ với các
thể loại văn học khác. Từ đó mở ra những cơ hội mới để các em chiếm lĩnh tác
phẩm mô ̣t cách sâu sắ c và cảm nhận được vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống xung
quanh.
Bên cạnh đó, các em đã được học khá nhiều tác phẩm thơ trữ tình ở trung
học cơ sở với những đề tài, nội dung đa dạng. Đó cũng là lí do quan trọng khiến
các em không quá khó khăn, bỡ ngỡ khi tiếp nhận tác phẩm. Hơn nữa, học sinh ở
lứa tuổi này có sự phát triển mạnh mẽ về thể lực, trí tuệ và tình cảm. Điều đó
giúp các em hoàn toàn có khả năng tư duy trừu tượng và tưởng tượng tái hiện.
43
Khi đứng trước cái hay, cái đẹp, cái lạ của sự vật, hiện tượng các em sẽ nhạy
bén, suy nghĩ sâu sắc và độc lập hơn.
Đối với người dạy: Dạy học tác phẩm thơ trữ tình là con đường quan trọng
để hình thành những cách khai thác tác phẩm ở những thể loại khác nhau. Trong
thực tế không phải tác phẩm nào cũng tuân thủ tuyệt đối theo đặc trưng riêng
biệt của một thể loại nhất định, mà chúng thường thâm nhập vào nhau. Chẳng
hạn như trong tác phẩm tự sự có bao hàm những yếu tố trữ tình, ngược lại trong
tác phẩm trữ tình vẫn có yếu tố tự sự còn trong kịch thường kết hợp cả hai. Sự
kết hợp đó là yêu cầu có tính quy luật của sáng tạo văn học và nhiều khi đó là
dấu hiệu về phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm. Đứng trước những yếu tố giao
nhau về đặc trưng thể loại như thế, nếu giáo viên hiểu biết sâu sắc về thể loại,
biết bám sát vào đặc trưng thể loại sẽ khai thác hết sức mạnh của nó. Vì thế
giảng dạy thơ trữ tình hiện đại theo đặc trưng thể loại giúp giáo viên có cách cảm
thụ tác phẩm chính xác và có chiều sâu.
2.1.2.2. Khó khăn
Về nội dung chương trình: Những tác phẩm đưa vào giảng dạy trong
chương trình Ngữ văn 12 đều là những tác phẩm xuất sắc góp phần làm nên diện
mạo, gương mặt của nền văn học dân tộc. Tuy nhiên, với một số tác phẩm dài
như Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Việt Bắc của Tố Hữu, sách
giáo khoa chỉ trích dẫn một số đoạn tiêu biểu. Vì thế, với những tác phẩm ấy,
học sinh khó có thể có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về tác phẩm. Hơn nữa, đoạn
thơ Đất nƣớc được trích giảng trong chương trình khá dài, mạch triển khai cảm
xúc và suy tưởng linh hoạt, lại sử dụng thể thơ tự do với nhiều câu thơ dài ngắn
khác nhau và rất ít vần, thậm chí nhiều chỗ không vần. Học sinh sẽ gặp khó khăn
trong việc đọc và tiếp nhận đoạn thơ. Cùng với hai đoạn trích trên, học sinh cũng
rất lúng túng khi tiếp cận với văn bản Đàn ghi ta của Lorca của nhà thơ Thanh
44
Thảo vì đây là bài thơ tự do được viết theo phong cách tượng trưng, siêu thực.
Phần lớn người học chưa tiếp xúc nhiều và cũng chưa thực sự được trang bị
những kiến thức mĩ học về thơ viết theo phong cách tượng trưng siêu thực. Bên
cạnh đó, thời gian phân phối cho một số tác phẩm còn ít. Trong thời gian ngắn,
giáo viên và học sinh phải khám phá, tìm hiểu hết giá trị, cái hay, cái đẹp của tác
phẩm. Mặt khác, thơ trữ tình hiện đại , nhất là từ sau năm 1945 tuy giản dị, gần
gũi, nhiều lúc chỉ như lời kể, lời nói, lời bộc bạch về cuộc sống, suy tư hết sức
chân thực nhưng lại mang nhiều tầng ý nghĩa. Bên cạnh đó khi cái tôi trong thơ
được giải phóng, trên thi đàn xuất hiện nhiều tài năng thi ca đa phong cách, chịu
ảnh hưởng của những thi pháp thơ mới mẻ thì những sáng tác của họ cũng đầy
màu sắc. Để khám phá hết cái hay, cái đẹp ở mỗi tác phẩm thâ ̣t không dễ dàng.
Về phía học sinh: Hiện nay ở trường phổ thông, hầu hết các em học sinh
còn thờ ơ, lãnh đạm với thơ, không có thói quen chủ động, khám phá, tìm hiểu
bài học. Các em thường ít hiểu, ít yêu thơ. Ít em có một quyển sổ đẹp mà chăm
chút vào đấy những bài thơ hay mà mình yêu thích. Nếu được hỏi những bài thơ
hay mà các em yêu thích, thường thì hiểu biết của các em chỉ quanh quẩn những
bài trong sách giáo khoa. Cá biệt có những em còn không kể được tên những tác
phẩm thơ trữ tình đã được học trong chương trình. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát
triển cùng với xu hướng toàn cầu hoá thì những môn học thời thượng như Toán,
Lí, Hoá, Ngoại ngữ…được lựa chọn nhiều hơn. Trái lại, văn chương ít có tính
năng ứng dụng, tương lai người học ít được bảo đảm, học sinh ngày càng rời xa
môn học này. Đặc biệt, một thực tế mà giáo viên nào cũng nhận thấy: sách tham
khảo, sách hướng dẫn học tốt, sách chuẩn kiến thức và những bài văn mẫu quá
nhiều, vô hình chung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, nhiều em còn
học đối phó bằng cách soạn bài hoàn toàn dựa vào sách tham khảo nhưng chưa
45
một lần đọc văn bản trong sách giáo khoa. Vì thế, đôi khi cái nhìn của các em về
tác phẩm còn lệch lạc, thậm chí sai kiến thức cơ bản.
Về phía giáo viên: Khi dạy học thơ trữ tình, nhiều giáo viên chỉ đi sâu tìm
hiểu nội dung và tư tưởng phản ánh trong bài thơ, chưa chú ý đúng mức đến hình
thức nghệ thuật. Hoặc có chú ý đến hình thức nghệ thuật nhưng tách rời các hình
thức nghệ thuật ra khỏi nội dung. Cũng có những trường hợp suy diễn một cách
máy móc, gượng ép các nội dung và vai trò, ý nghĩa của các hình thức nghệ thuật
trong tác phẩm. Cũng có những giờ học, hệ thống câu hỏi đưa ra mang tính chiếu
lệ, chưa phát huy được trí tuệ, năng lực cảm thụ văn chương của học sinh. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do giáo viên chưa tìm hiểu kĩ
đặc trưng thể loại của thơ trữ tình. Bên cạnh đó, phần lớn giáo viên dạy thơ trữ
tình theo phương pháp truyền thống, chưa chú ý tới việc tiếp nhận của học sinh
và yêu cầu đổi mới phương pháp.
2.1.3. Thực trạng giảng dạy thơ trữ tình 12, chương trình chuẩn ở trường
THPT
Xuất phát từ quan điểm: để học sinh tiếp nhận nhiều thể loại văn học, cảm
thụ nhiều loại tác phẩm khác nhau bởi mỗi thể loại văn học có phương thức biểu
hiện và phản ánh hiện thực khác nhau. Chương trình Ngữ Văn nói chung,
chương trình Ngữ Văn 12, chương trình Chuẩn, THPT nói riêng đã đem cho
người đọc cái nhìn đa diện về nền văn học dân tộc. Chỉ tính riêng phần văn học
hiện đại trong chương trình Ngữ Văn 12, chương trình Chuẩn, học sinh đã được
tiếp xúc với nhiều thể loại văn học hiện đại (thơ, kịch, kí, truyện, văn nghị luận,
văn bản nhật dụng…). Một điều rất dễ nhận thấy, mỗi thể loại đều in dấu ấn
phong cách tác giả, đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật; phản ánh sâu
sắc hiện thực đời sống qua từng giai đoạn phát triển. Chính điều này quy định
cách dạy học theo từng thể loại theo đúng định hướng của chương trình: xây
46
dựng theo quan điểm tích hợp với nguyên tắc “đọc và cảm thụ văn học phải tuân
theo quy định về loại thể, gắn liền với việc bồi dưỡng tri thức thể loại và đánh
giá thành tựu văn học theo thể loại” [29]. Các văn bản thuộc thể loại khác nhau
cần có cách khai thác và cảm thụ khác nhau. Đọc – hiểu thơ khác với truyện hay
với kịch.
Tìm hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại là một việc làm cần thiết trong
hoạt động dạy và học văn ở trường THPT. Bởi thể loại chính là cơ sở tạo nên
tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm, quy định cách tổ chức, liên kết các yếu
tố nội dung và hình thức. Thể loại còn định hướng cho việc tiếp nhận của độc
giả, tạo nên kênh giao tiếp giữa người đọc và tác phẩm. Tuy nhiên, trong quá
trình giảng dạy nhiều giáo viên không chú ý đến đặc trưng thể loại, trong đó dạy
thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại chưa được chú trọng. Để tìm hiểu thực trạng
dạy và học đối với thể loại thơ trữ tình trong chương trình Ngữ Văn 12, chương
trình Chuẩn, THPT, chúng tôi đã sử dụng cách thức chủ yếu là phát phiếu điều
tra đến giáo viên và học sinh tại 2 trường:
- Trường THPT A Hải Hậu – Hải Hậu - Nam Định
- Trường THPT Thịnh Long – Hải Hậu – Nam Định
Sau đây là một số khái quát về thực trạng dạy tác phẩm thơ trữ tình trong SGK
Ngữ văn 12 theo đặc trưng thể loại (theo thống kê từ phiếu điều tra)
2.1.3.1 Kết quả khảo sát từ giáo viên
Bảng 2.2 Tổng hợp 23 giáo viên 2 trƣờng THPT Thịnh Long và THPT
A Hải Hậu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
STT
Câu hỏi
Phân loại
Kết quả
Trường
Trường
THPT Thịnh THPT A Hải
47
Long
1
Hậu
GV dạy tác phẩm thơ Thường xuyên
35%
30%
trữ
đặc Thỉnh thoảng
50%
60%
Chưa bao giờ
15%
10%
4%
2%
Hiệu quả cao
35%
42%
Nhận xét của giáo Bình thường
50%
48%
viên khi sử dụng Không có hiệu
15%
10%
Thời gian dạy theo Thường xuyên
31%
48%
phương pháp này?
Thỉnh thoảng
64%
49%
Chưa bao giờ
5%
3%
100%
100%
0%
0%
GV thích dạy theo Thích dạy
30%
42%
phương pháp này?
Bình thường
55%
48%
Không thích
15%
10%
tình
theo
trưng thể loại?
2
Giáo viên chưa từng
biết đến phương pháp
này?
3
phương pháp này?
4
5
quả
Nguyện vọng muốn Muốn biết
biết
sâu
sắc
về Không biết
phương pháp này?
6
Qua quá trình khảo sát kết hợp với việc giảng dạy trên lớp của giáo viên,
có thể thấy từ khâu chuẩn bị bài đến dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh; các thầy cô đã thực hiện khá nghiêm túc quy trình giảng dạy nên
khám phá được phần nào giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
Giáo viên thường tổ chức, hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm theo đúng các
48
bước của một giờ lên lớp. Tuy nhiên, việc khai thác văn bản thơ trữ tinh theo đặc
̀
trưng thể loại mới chỉ được thực hiện ở một số giờ học. Có nhiều giờ học, giáo
viên quá coi trọng hoạt động phân tích văn bản hoặc có giáo viên lại thiên về
giảng – bình, truyền thụ kiến thức…mà chưa chú ý tới đặc trưng của thể loại thơ
trữ tình. Các giờ học chủ yếu diễn ra theo phương pháp đàm thoại một chiều:
thầy hỏi – trò trả lời; chưa có hướng trò hỏi thầy – trò hỏi trò. Các hoạt động trao
đổi, thảo luận giữa các nhóm học sinh với nhau nếu có cũng chỉ là hình thức.
Nhìn chung qua một số ý kiến của các thầy cô trực tiếp đứng lớp, có thể
nhận thấy một thực trạng còn tồn tại như sau: giáo viên mới chỉ chú trọng khai
thác nội dung mà không xuất phát từ đặc trưng thể loại khiến học sinh hiểu tác
phẩm chưa có chiều sâu; giáo viên cũng chưa có thói quen cho học sinh sưu tầm
các tác phẩm cùng thể loại để mở rộng sự hiểu biết và nắm vững bài học nhờ sự
so sánh, liên tưởng; Một số thầy cô còn cho rằng: sau khi học xong học sinh chỉ
cần nhớ tác phẩm hoặc đoạn trích là tốt, vì thế khi giảng chỉ cần giảng ý chính,
học sinh hiểu là thành công rồi; cũng có thầy cô lại khẳng định: cái đích của việc
học văn là rèn kĩ năng viết văn cho học sinh để đi thi học sinh đạt điểm cao là
được; rất ít giờ dạy học sinh được tự do suy nghĩ, phát biểu quan điểm của cá
nhân mình, giáo viên thường áp đặt học sinh nói, nghĩ theo những gì mình đã
định sẵn; nhiều giáo viên nặng về phần bình khiến học sinh không phát huy được
năng lực sáng tạo của nhưng cũng có giáo viên lại chỉ chú ý đến hệ thống câu hỏi
mà xem nhẹ phần bình làm cho giờ học trở nên khô khan, năng lực cảm thụ cái
đẹp của tác phẩm đối với học sinh chưa đúng mức.
Những phân tích trên cho thấy, tuy học sinh lớp 12 đã được làm quen với
khá nhiều văn bản thơ trữ tình, có những tiền đề tâm lí để tiếp nhận thơ trữ tình
theo đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều học sinh hiểu về thơ trữ tình
một cách mơ hồ thậm chí không có hứng thú khi tiếp nhận.
49
2.2.2 Kết quả khảo sát từ học sinh
Bảng 2.3 Tổng hợp 185 phiếu của 2 trƣờng THPT Thịnh Long và THPT A
Hải Hậu
STT Câu hỏi
Phân loại
Em đã được học những tác Được học
1
phẩm thơ trữ tình chưa?
Kết quả
100%
Chưa được học
Cảm nhận của em khi học Thích
những tác phẩm thơ trữ tình?
Không thích
20%
Bình thường
2
38%
42%
Trong những tác phẩm (đoa ̣n Tây Tiến (QD)
trích) sau đây, em thích tác Việt Bắc (TH)
10%
phẩm (đoa ̣n trích ) thơ trữ tình Đất nước ( NKĐ)
15%
nào nhất? Vì sao?
Sóng (XQ)
30%
Đàn ghi ta của
3
26%
19%
Lorca (TT)
Em hiểu thế nào là thơ trữ Hiểu
tình?
Không hiểu
18%
Hiểu mơ hồ
4
30%
52%
Em hãy cho biết những đặc Hiểu
trưng cơ bản của thơ trữ tình? Không hiểu
17%
Trong những đặc trưng ấy, đặc Hiểu mơ hồ
5
10%
73%
trưng nào là cơ bản nhất?
Cùng với khảo sát bằng phiếu, chúng tôi cũng đã dự một số giờ dạy thơ
trữ tình thuộc địa bàn khảo sát và cũng có được những cảm nhận về khả năng
cảm thụ của học sinh. Các em đã nhận thức được giá trị nội dung của tác phẩm
50
qua việc khám phá những yếu tố nghệ thuật đặc sắc và những câu hỏi gợi ý của
giáo viên. Rất nhiều học sinh khi được hỏi về đặc trưng cơ bản của thơ trữ tình
các em mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định thơ phải có vần, có nhịp, giọng điệu,
phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan…còn các yếu tố về tứ thơ, tình cảm
thơ, nhân vật trữ tình, hình tượng thơ, ngôn ngữ, kết cấu… thường không được
nhắc đến. Khi được hỏi các em có thích học thơ trữ tình không thì rất ít các em
trả lời có. Được hỏi vì sao thì các em cho rằng thơ trữ tình khó vì gồm nhiều tầng
ý nghĩa, chứa đựng nhiều yếu tố hàm ngôn, liên tưởng tưởng tượng…Trả lời câu
hỏi: Em thích tác phẩm thơ trữ tình nào nhất thì cách lựa chọn của các em rất
khác nhau. Khi được hỏi vì sao em thích, nhiều em đã nêu được những cảm nhận
khá sâu sắc của bản thân về tác phẩm mà mình yêu thích. Chẳng hạn như em
Phạm Quỳnh Anh, lớp 12A3 cho biết: “Em thích nhất bài thơ Sóng của Xuân
Quỳnh bởi qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp
giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn,
thuỷ chung, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người.
Từ đó, thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con
người”, hoặc như ý kiến của em Nguyễn Thuỳ Dung, lớp 12A1: “Em thích nhất
đoạn trích Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bởi qua giọng thơ trữ tình
– chính luận, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố của văn hóa và văn học dân
gian, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp em có cái nhìn mới mẻ hơn về đất nước: Đất
nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân, nhân dân
làm ra đất nước. Từ đó, chúng em thêm yêu Tổ quốc mình và trân trọng hơn
công sức của biết bao người lao động bình dị”….Bên cạnh đó, rất nhiều em cho
rằng các em thích bài thơ vì bài thơ dễ thuộc, gần với cảm xúc của mỗi
người….Không ít học sinh tiếp thu thụ động chủ yếu bài giảng của giáo viên là
51
tài liệu duy nhất. Việc chuẩn bị bài ở nhà còn hạn chế nên việc học tập theo
phương pháp này còn gặp nhiều khó khăn.
Với kết quả khảo sát như trên, chúng tôi nhận thấy việc học tác phẩm thơ
trữ tình thực sự chưa đem đến cho học sinh niềm hứng thú. Các em đón nhận tác
phẩm một cách hời hợt, thiếu khoa học, chưa tương xứng với một thể loại văn
học giá trị và độc đáo. Nói về hạn chế của việc dạy học tác phẩm văn chương
trong nhà trường, giáo sư Phan Trọng Luận khẳng định: “Do chưa phân biệt đầy
đủ đặc trưng thi pháp của thể loại nên việc cắt nghĩa tác phẩm văn chương ở nhà
trường đã có những hạn chế kéo dài nhiều năm qua chưa khắc phục được” [30].
Để cải thiện tình trạng đó, sách giáo khoa Ngữ Văn được biên soạn chú
trọng nhiều hơn vào đặc trưng thể loại nhằm trang bị những tri thức sơ giản về
thể loại và tổ chức hoạt động dạy học tác phẩm. Được hướng dẫn tìm hiểu theo
cách này học sinh sẽ có nhiều cơ hội khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương.
Trên cơ sở đó, sẽ có năng lực tiếp nhận độc lập một tác phẩm văn học ngoài nhà
trường thuộc cụm thể loại. Muốn vậy, người giáo viên phải tìm ra những phương
pháp dạy học hữu hiệu để giúp học sinh nắm chắc kiến thức về thể loại văn bản
thơ trữ tình. Chỉ khi nắm chắc kiến thức về thể loại văn học, học sinh mới có
hứng thú tiếp nhận văn bản và yêu mến vốn văn hoá tinh thần của dân tộc.
2.2 Định hƣớng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình cho học sinh lớp 12
(chƣơng trình Chuẩn, THPT) theo đặc trƣng thể loại
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên, khắc phục thực
trạng dạy học thơ trữ tình hiện nay, chúng tôi đề xuất giải pháp dạy thơ trữ tình
theo đặc trưng thể loại cho học sinh lớp 12, bằng phương pháp tích cực hóa hoạt
động của người học với những giải pháp cụ thể.
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường nói chung và đổi mới dạy
học tác phẩm văn chương nói riêng, người giáo viên luôn phải có ý thức cao độ
52
trong việc vận dụng và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và biện
pháp hữu hiệu, đặc trưng của bộ môn để làm sao mục đích của giờ dạy học đạt
kết quả cao nhất.
Mỗi loại thể tác phẩm văn học lại có những phương pháp, hướng tiếp cận
khác nhau. Cho nên, để có được giờ dạy tác phẩm văn chương đạt hiệu quả thì
giáo viên cần phải xác định được loại thể tác phẩm đó là gì, chất của loại trong
thể. Từ đó, đưa ra những phương pháp dạy học hợp lí, tránh tình trạng vận dụng
một cách máy móc, thiếu cơ sở khoa học.
Các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 trong nhà trường THPT là những tác
phẩm đặc sắc, giàu tính nghệ thuật đòi hỏi người GV phải quan tâm tìm ra những
phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp để dạy những tác phẩm này. Xuất
phát từ thực tế các buổi dự giờ dạy thơ trữ tình lớp 12 hiện nay, chúng tôi xin
mạnh dạn đề xuất một số phương pháp dạy học thơ trữ tình nhằm giúp học sinh
chiếm lĩnh được đầy đủ, trọn vẹn cả về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,
đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy thơ trữ tình ở trường phổ thông
hiện nay.
2.3.1. Tìm hiểu xuất xứ
Tìm hiểu xuất xứ tức là tìm hiểu rõ tên bài thơ, tập thơ, tên tác giả, năm
xuất bản, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ…để thấy được cội nguồn của tứ thơ,
hiểu thêm bài thơ và ý nghĩa của nó. Trong xuất xứ, cái quan trọng nhất là hoàn
cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ.
2.3.1.1Tây Tiến được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng - một
nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng
trước hết là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt
khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài - quê hương của mình. Bài thơ
ra đời khi đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hoà
53