1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

2 Định hướng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình cho học sinh lớp 12 (chương trình Chuẩn, THPT) theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 126 trang )


trong việc vận dụng và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và biện

pháp hữu hiệu, đặc trưng của bộ môn để làm sao mục đích của giờ dạy học đạt

kết quả cao nhất.

Mỗi loại thể tác phẩm văn học lại có những phương pháp, hướng tiếp cận

khác nhau. Cho nên, để có được giờ dạy tác phẩm văn chương đạt hiệu quả thì

giáo viên cần phải xác định được loại thể tác phẩm đó là gì, chất của loại trong

thể. Từ đó, đưa ra những phương pháp dạy học hợp lí, tránh tình trạng vận dụng

một cách máy móc, thiếu cơ sở khoa học.

Các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 trong nhà trường THPT là những tác

phẩm đặc sắc, giàu tính nghệ thuật đòi hỏi người GV phải quan tâm tìm ra những

phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp để dạy những tác phẩm này. Xuất

phát từ thực tế các buổi dự giờ dạy thơ trữ tình lớp 12 hiện nay, chúng tôi xin

mạnh dạn đề xuất một số phương pháp dạy học thơ trữ tình nhằm giúp học sinh

chiếm lĩnh được đầy đủ, trọn vẹn cả về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,

đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy thơ trữ tình ở trường phổ thông

hiện nay.

2.3.1. Tìm hiểu xuất xứ

Tìm hiểu xuất xứ tức là tìm hiểu rõ tên bài thơ, tập thơ, tên tác giả, năm

xuất bản, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ…để thấy được cội nguồn của tứ thơ,

hiểu thêm bài thơ và ý nghĩa của nó. Trong xuất xứ, cái quan trọng nhất là hoàn

cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ.

2.3.1.1Tây Tiến được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng - một

nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng

trước hết là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt

khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài - quê hương của mình. Bài thơ

ra đời khi đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hoà



53



Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị

khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu. Tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc

tỉnh Hà Đông cũ) Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi

tên là Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô. Vì thế mạch liên kết giữa các đoạn

trong bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong

một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn

quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ,

đầ y thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí

ức, những kỉ niệm được tái hiện một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ

niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh

tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và

người đọc như có cảm tưởng đang sống cùng nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

2.3.1.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được sáng tác trong một hoàn cảnh rất đặc

biệt: Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, hiệp đinh Giơ-ne-vơ về Đông

Dương được kí kết . Hoà bình lâ ̣p lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt

tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được

mở ra. Tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ và những người

kháng chiến từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử ấy,

Tố Hữu sáng tác bài thơ này. Đoạn trích được học trong chương trình Ngữ Văn

12, chương trình Chuẩn, THPT thuộc phần đầu của bài thơ tái hiện những kỉ

niệm cách mạng và kháng chiến. Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách thơ Tố

Hữu là sự hoà quyện giữa nội dung trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm

đà tính dân tộc. Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy

xúc động bâng khuâng. Đây là cuộc chia tay của những người cùng chung một

chiến hào đã từng gắn bó suốt “mười năm năm ấy”, có biết bao kỉ niệm ân tình,



54



từng xẻ chia mọi cay đắng, ngọt bùi nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ,

khẳng định tình nghĩa thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng.

2.3.1.3. Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm được hoàn

thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị

vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình,

xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Đoạn trích Đất nước (Phần đầu chương V của bản trường ca) là chương hay

nhất, thể hiện sâu sắc một trong những tư tưởng cơ bản nhất của bản trường ca.

Nó cô đọng kết quả nhận thức của thế hệ trẻ Việt Nam về đất nước – một nhận

thức có thể làm thành điểm tựa để họ xác định vai trò, vị trí của mình trong cuộc

đấu tranh chung vĩ đại của dân tộc. Mạch cảm hứng và liên tưởng của đoạn thơ

có vẻ tự do, phóng túng như một thứ tuỳ bút thơ nhưng thực ra vẫn có một hệ

thống lập luận khá chặt chẽ, tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ

yếu sau: Trong chiều dài thời gian lịch sử: Quá khứ - hiện tại – tương lai), trong

chiều rộng của không gian - địa lí và trong chiều bề dày của văn hoá – phong tục,

lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện này thể hiện trong sự gắn

bó, thống nhất. Nhưng ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi cũng là

quan niệm “Đất nước của nhân dân”, đó cũng chính là hệ quy chiếu mọi xúc

cảm, suy tưởng mà nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ đặc sắc làm

sâu sắc thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca thời kì chống Mĩ cứu nước.

2.3.1.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi

thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình

yêu, in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân

Quỳnh. Đó là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên

tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc

bình dị đời thường. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để diễn tả những cảm xúc,



55



tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi

của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khát khao yêu đương.

2.3.2. Cảm nhận ý thơ là khám phá nội dung và hình thức của bài thơ.

Ý thơ có thể là những cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, những sự việc, cảnh

vật…có thể là những biểu hiện sự vận động của hình ảnh, hình tượng thơ, cái tôi

trữ tình, nhân vật trữ tình…Các ý thơ bắt đầu từ tứ thơ, đó là một ý chính, ý lớn

bao quát toàn bài, làm điểm tựa cho sự vận động của cả bài thơ. Thơ ca là thế

giới của cảm xúc, của mơ mộng và tưởng tượng, của ngôn từ cô đọng, hàm súc,

giàu hình ảnh và nhạc điệu cho nên phải đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng

và tưởng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từng từ ngữ, chi tiết, vần

điệu…mới nhận ra tứ thơ, cảm nhận các ý thơ.

2.3.2.1 Bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

Trong quãng đời lính của Quang Dũng và có lẽ trong suốt cả cuộc đời của

người nghệ sĩ tài hoa ấy, những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến

chắc chắn là quãng thời gian đáng nhớ nhất.Và bao nhiêu kỉ niệm, bao nhiêu vẻ

đẹp, sự bi tráng của một quãng đời không thể nào quên ấy lại được lưu giữ mãi

với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc: Tây Tiến. Bài thơ mang chứa gần như

trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.

Bài thơ được hình thành và kết tinh từ nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những

người đồng đội và những kỉ niệm không thể nào quên của nhà thơ gắn với miền

Tây hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đánh thức

mọi hồi ức để kết tinh thành những hình ảnh sinh động. Mạch hồi tưởng đã lần

lượt tái hiện những hình ảnh về Tây Tiến theo trình tự vận động của tâm lí. Khởi

đầu là cuộc hành quân dãi dầu gian khổ giữa một khung cảnh miền Tây hoang

sơ, dữ dội. Tiếp đó, nỗi nhớ gợi về những hình ảnh tươi đẹp, rực rỡ, thơ mộng.

Nổi bật là hình ảnh những thiếu nữ tình tứ trong những bộ xiêm y lộng lẫy trong



56



vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ và vẻ đẹp huyền ảo của cảnh chiều sương Châu Mộc.

Đến đây, nỗi nhớ được kết tinh lại trong sự khắc hoạ tập trung, cận cảnh bức

tượng đài nghệ thuật về người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa. Nỗi nhớ đã đi

trọn mạch hồi tưởng của nhà thơ. Kết thúc, tác giả muốn gửi gửi trọn hồn mình

lên Tây Tiến và mảnh đất miền Tây.

Tây Tiến – một thi phẩm độc đáo, kết tinh tâm hồn tài hoa và tài năng

sáng tạo của nhà thơ Quang Dũng ở nhiều phương diện: hình ảnh, ngôn ngữ,

giọng điệu. Hình ảnh trong bài thơ rất đa dạng và được sáng tạo bằng nhiều bút

pháp khác nhau, tạo nên nhiều sắc thái thẩm mĩ phong phú. Trong bài thơ có hai

loại hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời còn

có hình ảnh về cuộc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến.

Xem xét kĩ hơn, có thể nhận thấy mỗi loại hình ảnh (thiên nhiên, con người)

cũng lại có hai dạng chính tạo nên hai sắc thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho

nhau: thiên nhiên có cái khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ (“Dốc lên khúc khuỷu

dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời…Chiều chiều oai linh thác

gầm thét – Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”… “Sông Mã gầm lên khúc

độc hành”) nhưng lại có hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương

khói, trong màn mưa…(“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi – Mường Lát hoa

về trong đêm hơi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Người đi Châu Mộc

chiều sương ấy – Có thấy hồn lau nẻo bến bờ - Có nhớ dáng người trên độc mộc

– Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”)…Hình ảnh con người cũng hiện ra nhiều

sắc thái mà chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng ở đây là ý chí, tư thế hiên

ngang, vượt lên và coi thường những gian khổ khó khăn, thiếu thốn. Hào hoa là

ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát

khao, mơ mộng. Tác giả sử dụng nhiều bút pháp trong miêu tả, dựng hình ảnh.

Có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao



57



quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây.

Nếu hình dung theo cách của hội hoạ thì có thể thấy hai bút pháp chính có những

nét bút mạnh bạo, khoẻ khoắn lại có những nét mềm mại, uyển chuyển tạo nên

vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng ẩn hiện.

Đặc sắc trong ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hoà trộn nhiều sắc

thái, phong cách với nhiều lớp từ vựng đặc trưng . Có thứ ngôn ngữ trang trọng,

màu sắc cổ kính (chủ yếu là đoạn ba miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây

Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ; lại có lớp từ ngữ sinh động, giản dị của lời ăn

tiếng nói hàng ngày, in đậm phong cách người lính: Nhớ chơi vơi, súng ngửi

trời, anh bạn, bỏ quên đời, cọp trêu người…). Một nét sinh động trong ngôn ngữ

của bài thơ là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái

mới cho từ ngữ (ví dụ: Nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai

Châu mùa em, hoa đong đưa, dáng kiều thơm, về đất…). Sử dụng địa danh cũng

là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ của bài thơ. Các địa danh vừa tạo ấn tượng

về tính cụ thể xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người, lại vừa

gợi được sự hấp dẫn của xứ lạ phương xa. Cả bài thơ bao trùm trong nỗi nhớ.

Nỗi nhớ ấy gọi về những kỉ niệm, những hình ảnh với những trạng thái cảm xúc

khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm

xúc. Ở đoạn một, giọng điệu chủ đạo là giọng tha thiết, bồi hồi được cất lên

thành những tiếng gọi, những từ cảm thán (“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”, “Nhớ

ôi Tây Tiến cơm lên khói”). Ở đoạn hai, khi tái hiện kỉ niệm về những đêm liên

hoan thắm tình quân dân thì đoạn thơ chuyển sang giọng tươi vui, rộn ràng; rồi

lại bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều sương

mờ bao phủ Châu Mộc. Giọng thơ lại trở nên trang trọng, kiêu hùng rồi lắng

xuống bi tráng ở đoạn ba, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi



58



tráng của họ. Ở đoạn cuối, giọng thơ trở lại bâng khuâng, trầm lắng đau đáu một

nỗi nhớ trong sự xa cách với những người đồng đội và miền Tây.

2.3.2.2. Đoạn trích “Việt Bắc” – Tố Hữu

Bài thơ Việt Bắc là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

“Việt Bắc” vừa là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc cách mạng, về

cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Để có được khúc hát ân tình tha

thiết, Tố Hữu đã sáng tạo cách kết cấu phù hợp với nội dung tư tưởng – cảm xúc

ấy: Lời đối đáp trong một cuộc chia tay của những người cùng chung mô ̣t chiế n

hào. Trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên

nỗi niềm hoài niệm thiết tha về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền

chặt và hẹn ước về tương lai. Cách cấu tứ này trong ca dao, dân ca dùng để diễn

tả những tâm trạng của tình yêu. Tình nghĩa riêng tư đã được Tố Hữu vận dụng

sáng tạo vào việc thể hiện những nghĩa tình cách mạng rộng lớn. Cùng với cấu tứ

ấy, một phần quan trọng trong ngôn ngữ của bài thơ cũng thuộc về hệ thống

ngôn ngữ diễn tả những tâm trạng của tình yêu (mình, ta, nhớ, thiết tha, mặn

nồng, bâng khuâng, bồn chồn…Bằng cách đó, bài thơ dẫn người đọc vào không

khí ân tình của hoài niệm, của ước vọng và tin tưởng. Chuyện nghĩa tình cách

mạng, kháng chiến đã đến với lòng người bằng con đường của tình yêu. Bài thơ

kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Nhưng đây không chỉ là

lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng. Lời đáp không chỉ nhằm giải

đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, mở rộng, cụ thể và

phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng ngân

vang những tình cảm chung. Thực ra nhìn sâu hơn thì qua lớp đối thoại của kết

cấu bên ngoài, chính là lời độc thoại của tâm trạng đắm mình trong hoài niệm

ngọt ngào hạnh phúc về quá khứ đẹp đẽ với nghĩa tình thắm thiết – tình nghĩa

nhân dân, tình nghĩa kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi



59



sáng. Kẻ ở - người đi, người hỏi – người đáp ở đây có thể xem là một cách “phân

thân” của một cái tôi trữ tình để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô

ứng, đồng vọng, vang ngân.

Bằng âm điệu ngọt ngào, êm ái, trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru, bài thơ

đưa người đọc vào thế giới tâm tình đằm thắm, đầy ân nghĩa. Trong không khí

ấy, mọi cảnh vật thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người cho đến các

hoạt động kháng chiến đều đậm đà ý vị tình nghĩa, bao bọc trong ánh hồi quang

của kỉ niệm và nỗi nhớ thiết tha.

Đoạn thơ mở ra bằng một cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng, bồn

chồn, lưu luyến của kẻ ở người đi. Lời hỏi của Việt Bắc – Người ở lại đã khơi

dậy, làm tuôn trào cả một trời kỉ niệm với bao hình ảnh, sự việc của một thời

không thể nào quên. Nếu lời hỏi chỉ nhằm khơi gợi, thì lời đáp lại dào dạt , dồn

dâ ̣p như dòng cảm xúc tuôn trào.

Trong kí ức bao trùm, có ba mảng thống nhất, hoà nhập không thể tách

rời. Đó là nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng Việt Bắc; nỗi nhớ con người, cuộc sống ở

Việt Bắc và những kỉ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng. Thiên nhiên khi thì

đậm đà, thi vị trong những hình ảnh thơ mộng: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều

lưng nương”, “bản khói cùng sương”, “sớm khuya bếp lửa người thương đi

về”…; khi lại hùng tráng, lớn lao vững chãi cùng với con người chiến đấu: “Núi

giăng thành luỹ sắt dày – Rằng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Nhưng nhớ thiên

nhiên là nhớ con người, bởi thiên nhiên và con người hoà quyện, tô điểm cho

nhau và con người là nơi hội tụ vẻ đẹp và làm ấm áp cho bức tranh thiên nhiên

đă ̣c biê ̣t là đoa ̣n thơ miêu tả bức tranh tứ bình



. Cuộc sống, sinh hoạt của con



người, qua hoài niệm hiện ra những nét thanh bình, yên ả (“Nhớ sao tiếng mõ

rừng chiều – Chày đêm nện cối đều đều suối xa”), nhưng cũng cả trong nghèo

khó, cơ cực (“Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng – Nhớ người mẹ nắng cháy lưng



60



– Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”)…Đẹp nhất là ở nghĩa tình cách mạng, ở sự

san sẻ cùng chung mọi khó khăn, thử thách. Nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc

sống gian nan, thiếu thốn…

Theo mạch cảm xúc hoài niệm, bài thơ dẫn vào khung cảnh Việt Bắc

kháng chiến với những cảnh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi nổi của cuộc

kháng chiến được vẽ nên với bút pháp tráng ca (từ câu 53 đến câu 88). Sức mạnh

và khí thế của cuộc kháng chiến hiện ra trong đội ngũ trùng điệp của những đoàn

bộ đội, dân công (những so sánh để nói về sức mạnh: “Rầm rập như là đất rung”,

“Bước chân nát đá”; những từ ngữ chỉ số lượng đông đảo: Điệp điệp, trùng

trùng, từng đoàn, muôn). Những con đường Việt Bắc về đêm không chỉ tấp nập

mà còn rực rỡ ánh sáng: Ánh sáng của đuốc lửa dân công, ánh sao đầu súng, và

còn cả ánh đèn pha rực rỡ của những đoàn xe ra trận.

Đoạn thơ tiếp theo phác hoạ hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc

họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng

trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu

não của cuộc kháng chiến nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của con người Việt

Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là ở những nơi còn “u ám quân thù”. Đối

chiếu với đoạn thơ trước (từ câu 25 đến câu 52) có thể thấy sự biến đổi khá rõ

trong nhiều yếu tố nghệ thuật của đoa ̣n thơ này phù hợp với sự biến đổi về nội

dung: Điê ̣u thơ đang từ êm ả, tha thiết trong dòng hoài niệm về nghĩa tình với

Việt Bắc đã chuyển sang nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ khi miêu tả khung

cảnh chiến đấu và những hoạt động khẩn trương, sôi động của cuộc kháng chiến,

rồi lại trang trọng, thiêng liêng ở đoạn cuối khi tả một cuộc họp Trung ương,

Chính phủ và khái quát về vị trí, ý nghĩa của Việt Bắc với cuộc kháng chiến của

toàn dân tộc; về bút pháp xây dựng hình ảnh: đoạn thơ này thiên về tạo những



61



hình ảnh rộng lớn, hùng tráng, đậm chất sử thi (cùng với những câu thơ có chất

diễn ca lịch sử thiên về kể việc, ghi lại sự kiện).

Nổi bật và bao trùm trong bút pháp nghệ thuật của đoa ̣n trich Việt Bắc là

́

tính dân tộc hết sức đậm đà, nhuần nhị: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận

dụng trong bài thơ dài vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng,

linh hoạt. Câu thơ lúc thì dung dị, gần gũi với ca dao, lúc thì cân xứng, nhịp

nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị đến độ cổ điển; chất liệu văn hoá và

văn học dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình.

Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn

dụ, tượng trưng, ước lệ) được sử dụng thích hợp tạo nên phong vị dân gian và

chất cổ điển của bải thơ. Rất nhiều cặp hình ảnh sóng đôi trong những mô tuýp

của ca dao – dân ca được vận dụng một cách tài tình để biểu hiện những quan hệ

tình cảm mới của đời sống cách mạng, làm cho nó mang ý vị dân tộc đậm đà. Đó

là những cặp hình ảnh như: mây – núi, sông – nguồn, cây – núi, mái đình – cây

đa, đèn – trăng…và nhiều cặp hình ảnh mới được sáng tạo theo mô hình ấy:

“miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “trám bùi để rụng, măng mai để

già”. Một thủ pháp nghệ thuật độc đáo làm giàu thêm tính dân tộc trong ngôn

ngữ của bài thơ là việc sử dụng sáng tạo cặp đại từ “mình” – “ta” và nhất là từ

“mình”. Trong Tiếng Việt, từ “mình” là ngôi thứ nhất, nhưng cũng còn để chỉ

đối tượng giao tiếp thân thiết, gần gũi – chỉ người bạn đời yêu mến (ngôi thứ

hai), thường là chỉ dùng trong các quan hệ tình yêu, vợ chồng. Trong Việt Bắc

chủ yếu được dùng ở ngôi thứ hai này: điều đó phù hợp và tạo nên mối quan hệ

gắn bó giữa hai nhân vật đối đáp. Nhưng có những lúc biến hoá, chuyển hoá đa

nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng hoà nhập làm một như trong các câu:

“Mình đi, mình có nhớ mình”, “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Đối với đại từ



62



“ta”. Trong bài thơ, “ta” là ngôi thứ nhất, người phát ngôn nhưng “ta” trong

nhiều trường hợp là chỉ chung hai người “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.

2.3.2.3. Đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm

Đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày những cảm xúc và

suy tưởng về đất nước dưới dạng một lời trò chuyện tâm tình. Mạch liên tưởng

và cảm hứng có vẻ tự do, phóng túng nhưng thực ra vẫn có một hệ thống lập

luận khá chặt chẽ. Ở phần một, đất nước được cảm nhận từ những gì gần gũi,

bình dị trong cuộc sống hàng ngày rồi mở rộng ra với “thời gian đằng đẵng –

Không gian mênh mông” trong những truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối

cùng cảm nhận về đất nước lại hướng vào sự phát hiện về đất nước trong mỗi

con người, “trong anh và em”, từ đó nhắc nhở mỗi người về trách nhiệm đối với

đất nước. Đây cũng chính là mạch phát triển tư tưởng và cảm xúc về đất nước

trong phần đầu đoạn trích. Ở phần sau của đoạn trích, cảm nhận về đất nước

được mở ra theo các bình diện không gian địa lí, thời gian lịch sử, chiều sâu văn

hoá và tâm hồn dân tộc. Nhưng tất cả các bình diện ấy đều được nhìn nhận và

phát hiện từ một tư tưởng nhất quán, bao trùm: Đất Nước của Nhân Dân, chính

Nhân Dân đã làm ra đẩt nước. Sự cảm nhận ấy được gợi ra từ những thắng cảnh

thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị (Ông Đốc, ông

Trang, bà Đen, bà Điểm) rồi hướng đến lịch sử bốn nghìn năm với những lớp

người “không ai nhớ mặt đặt tên”, họ sống giản dị và bình tâm, nhưng chính họ

đã làm ra đất nước. Đến đây mạch cảm xúc của tác giả lại dẫn đến một khái quát

cô đọng, đúc kết một chân lí: “Để Đất Nước này là đất nước Nhân Dân – Đất

Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”. Đó cũng chính là mạch

vận động cảm xúc và tư tưởng ở phần hai của đoạn thơ.

Đoạn thơ về đất nước không bắt đầu một cách trang trọng mà bình dị, gần

gũi. Đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể của



63



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

×