1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ RỦI RO TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.57 KB, 99 trang )


chuẩn bị hành trang cho con cái vào đời là biện pháp hết sức thiết thực và có

ý nghĩa.

Bên cạnh đó, việc chăm lo cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề

được xã hội quan tâm và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu

nhập từ lương hưu, nhưng thực tế khó có thể đáp ứng đủ các nhu cầu chi tiêu

trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn những người già không có lương hưu

phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là

vấn đề xã hội bức xúc. Chẳng ai muốn sống một tuổi già đau yếu bệnh tật,

phụ thuộc hay là gánh nặng cho con cái. Đặc biệt, tuổi thọ càng cao thì nguồn

dự trữ tài chính lại dần dần bị cạn kiệt. Vấn đề là phải tạo ra một công cụ để

mọi người có thể đều đặn dành ra từ thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của

mình những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ đảm bảo cuộc sống khi về già.

Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng

cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài

Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế, các dịch vụ Bảo hiểm Nhân thọ ra đời là hết

sức cần thiết nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Bảo hiểm Nhân thọ, nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình của

bảo hiểm thương mại, là hình thức bổ sung cho Bảo hiểm Xã hội và Bảo hiểm

Y tế, nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước

những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất

thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. So

với Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế, Bảo hiểm Nhân thọ có đối tượng tham

gia rộng hơn, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm do

những người tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thỏa thuận và

cam kết trong hợp đồng. Hình thức bảo hiểm là tự nguyện. Còn đối với Bảo

hiểm Xã hội, phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào tiền lương của người lao



6



động do Nhà nước quy định. Ngoài ra, sự khác nhau còn được thể hiện ở cơ

sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện v.v…

Tuy nhiên sự khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra

sự đối lập, mâu thuẫn, mà trái lại chúng bổ sung cho nhau. Các sản phẩm Bảo

hiểm Nhân thọ có thể thay thế Bảo hiểm Xã hội trong những trường hợp,

những khu vực của nền kinh tế, những nơi mà Bảo hiểm Xã hội chưa được

thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp thu nhập của người lao động bị

giảm sút. Mặc dù người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp Bảo

hiểm Xã hội, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm

vi Bảo hiểm Xã hội hoặc các khoản trợ cấp Bảo hiểm Xã hội không đáp ứng

được những nhu cầu khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt

về mặt tài chính sẽ được Bảo hiểm Nhân thọ bù đắp.

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ

1.1.2.1 Khái niệm

Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con người là vô giá và không

thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tương đương với một sinh

mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thoả thuận dựa trên

một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản

khác. Người ta có những khái niệm về bảo hiểm nhân thọ như sau:

Bảo hiểm Nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham

gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc

người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự

kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một

thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng

hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan

đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.

7



Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam thì: "Bảo hiểm Nhân

thọ là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc

chết". Người được bảo hiểm và người tham gia BHNT rất rộng, có thể bao

gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau.

Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ

là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho

người thụ hưởng- thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ

chức. Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo

hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số

tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay

chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người

thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm

dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập.

Tài liệu của Viện quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) cũng

nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi

phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo

hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm

của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết

sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định

hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị

tử vong hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm được chỉ rõ trong

hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao

hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi

thọ của con người.

Những khái niệm trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung

lại đều thể hiện những đặc trưng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là: Bảo



8



hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là

loại hình kinh doanh thu lợi nhuận, có những đặc điểm dưới đây.

1.1.2.2 Đặc điểm

a. Bảo hiểm Nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính bảo vệ

tài chính:

Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với

bảo hiểm Phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một

khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho Công ty Bảo hiểm, ngược lại Công

ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho

người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thỏa thuận từ trước khi có các sự

kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm (STBH) được trả khi người được bảo

hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số

tiền này được trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người

được bảo hiểm không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một

khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người

còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết, như: Thuốc men, mai táng,

chi phí giáo dục con cái. v.v... Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính chất tiết

kiệm, vừa mang tính bảo vệ tài chính cho người được bảo hiểm. Tính chất tiết

kiệm thể hiện ngay ở từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có

kế hoạch và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình

thức tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia

bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết

kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là, khi người được bảo hiểm không

may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm đã được ấn định, những người thân

của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay STBH từ Công ty Bảo hiểm.

Điều đó thể hiện rõ tính chất bảo vệ tài chính cho người được bảo hiểm trước

những rủi ro không mong đợi trong BHNT.



9



b. Bảo hiểm Nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau cho

người tham gia bảo hiểm :

Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm Phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một

mục đích là góp phần khắc phục hậu quả rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài

chính cho người tham gia, thì BHNT ngoài mục đích đó còn đáp ứng nhiều

mục đích khác. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng.

Chẳng hạn, hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) hưu trí sẽ đáp ứng nhu cầu của

người tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng năm, từ đó góp phần ổn

định cuộc sống của họ khi già yếu. HĐBH tử vong sẽ giúp người được bảo

hiểm để lại cho gia đình một STBH khi họ bị tử vong. Số tiền này đáp ứng

được rất nhiều mục đích của người quá cố, như: Trang trải nợ nần, giáo dục

con cái, phụng dưỡng bố mẹ già v.v... HĐBH nhân thọ đôi khi còn có vai trò

như một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho

các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các

mục đích cá nhân khác v.v... Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác

nhau nên loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất

nhiều người quan tâm.

c. Thời hạn Bảo hiểm Nhân thọ thường rất dài, quan hệ giữa các bên

trong mỗi hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ lại rất đa dạng và phức tạp :

Thời hạn trong BHNT thường kéo dài từ 5 năm trở lên. Mỗi sản phẩm

BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có

các hợp đồng 10 năm, 20 năm. Mỗi hợp đồng lại có sự khác nhau về STBH,

phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia... Ngay cả trong một bản

hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản

HĐBH Phi nhân thọ, trong mỗi HĐBH nhân thọ có thể có 4 người có liên

quan: Người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và

người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Người bảo hiểm chính là các Công ty

BHNT, còn người được bảo hiểm là người mà tính mạng, tình trạng sức khỏe

10



và những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của họ được bảo hiểm hoặc là

người giao tên tuổi của mình cho người khác đi ký HĐBH. Còn người tham

gia BHNT thực chất là những người trực tiếp đứng ra ký kết hợp đồng và nộp

phí bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm phải có đầy đủ năng lực pháp lý và

hành vi. Trong mỗi hợp đồng BHNT còn có người thụ hưởng quyền lợi bảo

hiểm. Thông thường người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia

và người được bảo hiểm cùng chỉ định. Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm

là người sẽ nhận được mọi quyền lợi từ người bảo hiểm chi trả khi người

được bảo hiểm tử vong.

d. Phí bảo hiểm Nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì

vậy quá trình định phí khá phức tạp :

Theo tác giả Jean - Claude Harrari (Jean – Claude Harri – NXB

Withers By & Co, Ltd - 1984) : "Sản phẩm Bảo hiểm Nhân thọ không gì hơn

chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng".

Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên

sản phẩm, như: Chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng. v.v... Nhưng

những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT,

một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào:





Độ tuổi của người được bảo hiểm ;







Tuổi thọ bình quân của con người;







Số tiền bảo hiểm;







Thời hạn tham gia;







Phương thức thanh toán;







Lãi suất đầu tư;







Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền...



Điều đó khác với việc định giá cả một chiếc ô tô. Chiếc ô tô là sản

phẩm của một dây chuyền sản xuất, để sản xuất ra nó, người ta phải chi ra rất

nhiều khoản chi, như: Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu; chi phí lao động sống;

khấu hao tài sản cố định v.v... Những khoản chi này là những chi phí thực tế

11



phát sinh và thực chất chúng là những khoản chi phí "đầu vào" được hạch

toán một cách chi tiết, đầy đủ và chính xác để phục vụ cho quá trình định giá.

Thế nhưng, khi định giá phí BHNT, một số yếu tố nêu trên phải giả định, như:

Tỷ lệ chết, tỷ lệ hủy bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát v.v... Vì thế,

quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của

mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát

triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung.

e. Bảo hiểm Nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế

- xã hội nhất định :

Ở các nước có nền kinh tế phát triển, BHNT đã ra đời và phát triển

hàng trăm năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn

chưa triển khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của

nó. Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu

để BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát triển.

Những điều kiện về kinh tế, như :





Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP);







Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân;







Mức thu nhập của dân cư;







Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền;







Tỷ giá hối đoái...



Những điều kiện xã hội bao gồm:





Điều kiện về dân số;







Tuổi thọ bình quân của người dân;







Trình độ học vấn;







Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.



Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, thì môi trường pháp lý cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. Thông thường ở các

nước, luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản, quy định có tính pháp quy phải

12



ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát triển. Luật bảo hiểm và các văn bản có

liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề, như: Tài chính, đầu tư, hợp đồng,

thuế v.v... Đây là những vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt động kinh

doanh BHNT. Chẳng hạn, ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, Đức

v.v... Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty BHNT bằng

các chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là nhằm tạo ra cho các cá nhân cơ hội để

tiết kiệm, tự mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp

từ Nhà nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong nền

kinh tế. Cũng vì những mục đích trên, mà một số nước Châu Á như: Ấn Độ,

Hồng Kông, Singapore... không đánh thuế doanh thu đối với các nghiệp vụ

BHNT. Sự ưu đãi này là đòn bẩy tích cực để ngành BHNT phát triển.

1.1.2.3 Vai trò của BHNT:

a. Đối với các cá nhân và gia đình :

Bảo hiểm Nhân thọ đã khắc phục được hậu quả rủi ro khi người được

bảo hiểm không may bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong nhằm ổn định cuộc

sống gia đình và người thân. Đồng thời BHNT còn thỏa mãn được các nhu

cầu như: tiết kiệm, tích lũy khi người được bảo hiểm còn sống để hỗ trợ

những người sống phụ thuộc có điều kiện để học tập, mua sắm, khởi nghiệp

kinh doanh…Ngoài ra BHNT trợ cấp định kỳ còn giúp những người về hưu

hay những người cao tuổi giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái, người

thân trong gia đình và phúc lợi xã hội.

b. Đối với nền kinh tế quốc dân :

Bảo hiểm Nhân thọ là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu để

đầu tư góp phần vào việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tính chất kết

hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, các Công ty BHNT không chỉ thực hiện chức

năng bảo hiểm cho những rủi ro, mà họ còn huy động được lượng tiền nhàn

rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội và các tổ chức để hình thành quỹ

bảo hiểm. Do thời hạn của các hợp đồng BHNT rất dài, nên nguồn quỹ bảo

13



hiểm ngày càng được tồn tích lại rất lớn. Khi chưa sử dụng đến để chi trả tiền

bảo hiểm thì quỹ BHNT là một trong những nguồn vốn đầu tư dài hạn cho

nền kinh tế. Bên cạnh vai trò cung cấp vốn để đầu tư, BHNT còn góp phần

thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người

lao động. Ngoài những người làm công ăn lương trong các công ty BHNT,

đội ngũ đại lý, môi giới BHNT cũng ngày càng đông và thực sự đã góp phần

giảm tỷ lệ lao động bị thất nghiệp ở rất nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu

thống kê năm 2003, ở Mỹ đã có tới 1,97 triệu lao động, ở Pháp là 0,62 triệu

lao động làm việc cho các Công ty BHNT, ở Việt Nam, tính đến thời điểm

ngày 31/12/2011 đã có hơn 202.900 người làm đại lý cho các Công ty BHNT

(nguồn từ Website thuvienbaohiem.com –Số liệu thống kê thị trường bảo

hiểm nhân thọ năm 2011).

c. Đối với các tổ chức kinh tế - xã hội :

Bảo hiểm Nhân thọ còn thỏa mãn được những nhu cầu cần thiết của họ

trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Những nhu cầu của các tổ chức kinh tế

- xã hội là: Tạo ra sự tự chủ về mặt tài chính, khi những người giữ các cương

vị quan trọng của họ bị tử vong. Một doanh nghiệp có thể mua BHNT cho

những người này với số tiền bảo hiểm tương đương với chi phí mà họ phải bỏ

ra để đào tạo hoặc thuê mướn. Không chỉ có thế các doanh nghiệp, các tổ

chức xã hội với biện pháp này họ còn giữ chân và khuyến khích người lao

động, đặc biệt là những người chủ chốt làm việc hết mình, gắn bó với doanh

nghiệp. Bởi lẽ thông qua các hợp đồng BHNT theo nhóm, doanh nghiệp có

thể tạo ra sự đảm bảo cho người lao động và những người sống phụ thuộc một

cuộc sống ổn định khi gặp phải rủi ro. Cung cấp các khoản tiền hưu trí khi hết

tuổi lao động hoặc các khoản phúc lợi bổ sung ngoài Bảo hiểm Xã hội.

1.1.3 Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:

Tuỳ vào những mục đích và nhu cầu khác nhau, Bảo hiểm Nhân thọ

đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của từng đối tượng khách hàng.

14



Nhưng nhìn chung, Bảo hiểm Nhân thọ có 3 loại hình cơ bản và các sản phẩm

bổ trợ như sau:

1.1.3.1 Bảo hiểm trong trường hợp tử vong (bảo hiểm tử kỳ)

Bảo hiểm tử kỳ hay còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: là

loại hình bảo hiểm được ký kết để thanh toán quyền lợi bảo hiểm trong trường

hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm, quyền lợi thanh

toán được trả cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong

hợp đồng hoặc người thừa kế hợp pháp.

1.1.3.2 Bảo hiểm trong trường hợp còn sống (bảo hiểm sinh kỳ )

Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm sẽ cam

kết thanh toán cho người được bảo hiểm một khoản tiền nhất định theo định

kỳ hoặc sống đến hết thời hạn hợp đồng bảo hiểm cam kết. Trong suốt quá

trình thực hiện hợp đồng, những rủi ro bất ngờ xảy ra sẽ không được thanh

toán bất cứ quyền lợi bảo hiểm nào.

1.1.3.3 Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp

Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp

người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan

xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới.

Trên thực tế Bảo hiểm Nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm phổ biến,

chiếm phần lớn trong các loại hình Bảo hiểm Nhân thọ trên thị trường, vì kết

hợp được giữa yếu tố tiết kiệm và yếu tố bảo vệ nên tạo được sự khác biệt và

có lợi thế cạnh tranh so với các loại hình tài chính, tín dụng khác.

1.1.3.4 Các sản phẩm bổ trợ

Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa

ra các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ cho hợp đồng chính nhằm đáp ứng nhu cầu



15



đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Các sản phẩm bổ trợ sau đây thường

hay được vận dụng như bảo hiểm thương tật, nằm viện, chi phí phẫu thuật,

bảo hiểm cho người phụ thuộc, bảo hiểm tử vong hay thương tật toàn bộ vĩnh

viễn, bảo hiểm từ bỏ thu phí, bảo hiểm chi phí nằm viện... đặc điểm của các

sản phẩm bổ trợ này là khi hợp đồng chính hết hiệu lực thì các điều khoản của

sản phẩm bổ trợ cũng sẽ không còn hiệu lực nữa.

Mặc dù khi áp dụng các sản phẩm bổ trợ này thì mức phí đóng sẽ cao

hơn, nhưng Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng

của người tham gia bảo hiểm.

1.2 Quản trị rủi ro trong công ty bảo hiểm nhân thọ

1.2.1 Khái niệm về rủi ro

Rủi ro là sự bất trắc xảy ra trong tương lai. Rủi ro vừa mang tính tích

cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những mất mát, tổn thất,

nguy hiểm... cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. Cả

doanh nghiệp và cá nhân đều đối mặt với 2 loại rủi ro là rủi ro thuần túy và

rủi ro đầu cơ.

1.2.1.1 Rủi ro thuần túy

Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến khả năng tổn thất hoặc không tổn

thất mà không liên quan đến khả năng thu lời, cho dù rủi ro đó có xảy ra hay

không. Một ví dụ của rủi ro thuần túy là khả năng bạn có thể bị tàn tật. Nếu

bạn không thể làm việc được, bạn sẽ bị thiệt hại về tài chính. Nói cách khác,

nếu bạn không bị tàn tật thì bạn sẽ không gặp rủi ro về tài chính. Khả năng

thiệt hại về tài chính mà không có khả năng thu lời gọi là rủi ro thuần túy và

là loại rủi ro duy nhất được bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm là bồi thường

mất mát về tài chính mà không tạo cơ hội cho việc thu lời.

1.2.1.2 Rủi ro đầu cơ



16



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

×