1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

2 Quản trị rủi ro trong công ty bảo hiểm nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.57 KB, 99 trang )


Rủi ro đầu cơ là những rủi ro dẫn đến 3 kết quả có khả năng xảy ra:

Tổn thất, thu lời hoặc không thay đổi. Ví dụ, bạn đầu cơ vào cổ phiếu nhằm

thu lợi khi giá trị cổ phiếu tăng. Đồng thời, bạn cũng có thể chịu tổn thất nếu

giá cổ phiếu giảm. Hoặc khả năng cuối cùng là bạn có thể không thu lợi hay

chịu tổn thất nếu giá trị của cổ phiếu không thay đổi.

1.2.2 Quản trị rủi ro

Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với rủi ro. Chúng ta gặp rủi ro khi đi

lại hàng ngày, khi tham gia hoạt động giải trí và ngay cả khi chúng ta thở.

Một số rủi ro thì rất lớn, một số khác thì không. Quản trị rủi ro là quá trình

bao gồm các hoạt động nhằm làm hạn chế, loại bỏ các rủi ro, hoặc khắc phục

các hậu quả mà rủi ro đã gây ra đối với hoạt động kinh doanh từ đó tạo điều

kiện cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp, giảm đến mức

thấp nhất các thiệt hại về người và của cải. Mục tiêu của quản trị rủi ro không

phải để triệt tiêu rủi ro. Nếu quản trị rủi ro tốt khi điều tồi tệ xảy ra, quản trị

rủi ro đã được dự báo và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Quản

trị rủi ro không đơn thuần vì mục đích phòng ngừa, càng không thể triệt tiêu

rủi ro mà là chủ động kiểm soát rủi ro có hiệu quả. Để loại trừ hoặc giảm

thiểu mức độ rủi ro, người ta có thể sử dụng các phương thức xử lý rủi ro sau:

1.2.2.1 Né tránh rủi ro

Phương pháp quản trị rủi ro đơn giản và dễ dàng nhất là né tránh rủi ro.

Chúng ta có thể tránh rủi ro tai nạn máy bay bằng cách không đi máy bay

hoặc chúng ta có thể tránh rủi ro tổn thất tài chính trên thị trường cổ phiếu

bằng cách giữ tiền trong tủ. Tuy nhiên, đôi khi né tránh rủi ro lại không hiệu

quả và thiết thực.

1.2.2.2 Kiểm soát rủi ro



17



Chúng ta có thể cố gắng kiểm soát rủi ro bằng cách thực hiện các biện

pháp để ngăn ngừa hoặc giảm bớt tổn thất. Ví dụ, để có thể giảm khả năng

xảy ra hỏa hoạn bằng cách cấm hút thuốc hoặc không đặt các vật liệu dễ cháy

trong cửa hàng. Ngoài ra, người ta cũng có thể trang bị bình chữa cháy tự

động để giảm mức độ thiệt hại khi xảy ra cháy. Bằng cách này hoặc cách

khác, người ta có thể giảm khả năng xảy ra tổn thất và giảm mức độ nghiêm

trọng của rủi ro tiềm ẩn.

1.2.2.3 Chấp nhận rủi ro

Phương pháp thứ ba trong quản trị rủi ro là chấp nhận hoặc giữ lại rủi

ro. Nói một cách đơn giản, chấp nhận rủi ro là nhận trách nhiệm về tài chính

của những rủi ro đó. Đôi khi, có những trường hợp rủi ro là không đáng kể

như việc mất một chiếc áo mưa thì rủi ro tài chính đó không đủ lớn để chúng

ta phải bận tâm vì chúng ta sẵn sàng chấp nhận bỏ tiền mua một cái ô mới. Cá

nhân và doanh nghiệp đôi khi quyết định chấp nhận tất cả thiệt hại của một

rủi ro tài chính nào đó thay vì mua bảo hiểm cho rủi ro đó. Trong trường hợp

này, cá nhân và doanh nghiệp đó đã dùng phương pháp tự bảo hiểm. Tự bảo

hiểm là một kỹ thuật quản lý rủi ro theo đó cá nhân và doanh nghiệp chấp

nhận thiệt hại tài chính khi xảy ra rủi ro. Ví dụ, nhiều chủ doanh nghiệp trích

một phần lương của toàn công ty để trả chi phí y tế cho nhân viên của mình bị

đau ốm. Hoặc một cách khác, các cá nhân và doanh nghiệp thường sử dụng là

chỉ chấp nhận một phần rủi ro. Ví dụ, một chủ doanh nghiệp có thể tự bảo

hiểm một phần chi phí y tế bằng cách thanh toán các chi phí y tế cho nhân

viên của mình đến một số tiền xác định và mua bảo hiểm cho phần chi phí

vượt quá số tiền nói trên. Nhiều chủ doanh nghiệp hiện nay sử dụng phương

pháp tự bảo hiểm chương trình bảo hiểm sức khỏe của nhân viên.

1.2.2.4 Chuyển giao rủi ro

Chuyển giao rủi ro là phương pháp thứ 4 trong quản trị rủi ro. Khi bạn

chuyển giao rủi ro cho bên khác tức là bạn đang chuyển trách nhiệm tài chính

18



của rủi ro đó cho họ bằng cách trả một khoản phí. Cách thông dụng nhất cho

các cá nhân, gia đình và các doanh nghiệp để chuyển giao rủi ro là mua bảo

hiểm. Khi một công ty bảo hiểm đồng ý bảo hiểm cho cá nhân hoặc doanh

nghiệp, công ty bảo hiểm sẽ phát hành hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo

hiểm là một văn bản bao gồm các điều khoản thỏa thuận giữa Công ty bảo

hiểm và chủ hợp đồng. Thỏa thuận đó là một hợp đồng có hiệu lực pháp luật

mà theo đó Công ty bảo hiểm đồng ý trả một khoản tiền quy định trước

thường được gọi là quyền lợi của hợp đồng hay là số tiền bảo hiểm của hợp

đồng khi xảy ra tổn thất với điều kiện nhà bảo hiểm đã nhận được một số tiền

quy định gọi là phí bảo hiểm. Nói chung các cá nhân và tập thể có thể mua

hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho 3 loại rủi ro: Rủi ro thiệt hại về tài sản,

rủi ro về trách nhiệm và rủi ro về con người.

* Rủi ro thiệt hại về tài sản bao gồm thiệt hại về kinh tế với chiếc ô tô,

ngôi nhà của bạn hoặc các tài sản cá nhân của bạn do tai nạn, trộm cắp, cháy

hoặc thảm họa tự nhiên gây ra. Bảo hiểm tài sản trả tiền bồi thường trong

trường hợp các tài sản được bảo hiểm bị hư hỏng hoặc mất mát vì các thảm

họa cụ thể như: Cháy, trộm cắp hoặc tai nạn.

* Rủi ro trách nhiệm bao gồm các rủi ro thiệt hại về kinh tế do bạn gây

ra cho người khác. Chẳng hạn bạn phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà

bạn gây ra cho ô tô của người khác trong một tai nạn ô tô. Bảo hiểm trách

nhiệm chi trả quyền lợi bảo hiểm thay cho người được bảo hiểm - người phải

có trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại gây ra cho người khác hoặc tài sản

của họ - một cách không cố ý. Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm

thường đuợc bán trong cùng một đơn bảo hiểm.

* Rủi ro con người bao gồm rủi ro thiệt hại về kinh tế liên quan đến tử

vong, bệnh tật và rủi ro mất khả năng tài chính khi về già. Các nhà bảo hiểm

nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe bán bảo hiểm để cung cấp sự an toàn về tài

chính trước những rủi ro về con người.

19



1.2.3 Quản trị rủi ro con người thông qua bảo hiểm (Mua bảo hiểm chính

là chuyển giao rủi ro)

Để có đủ khả năng tài chính trước những rủi ro kinh tế mà người được

bảo hiểm gặp phải các nhà bảo hiểm sử dụng khái niệm mà mọi người đều

biết đến đó là chia sẻ rủi ro. Bằng cách chia sẻ rủi ro, các cá nhân có khả năng

bị mất mát về kinh tế sẽ chuyển rủi ro cho Công ty bảo hiểm. Các Công ty

bảo hiểm biết rằng, không phải mọi người tham gia bảo hiểm cho những thiệt

hại về kinh tế do bị thương tật sẽ đều gặp rủi ro thương tật. Trong thực tế, chỉ

có một tỷ lệ nhỏ những người tham gia bảo hiểm có thể bị thương tật trong

thời gian bảo hiểm. Bằng việc thu phí bảo hiểm từ các cá nhân và doanh

nghiệp mong muốn chuyển rủi ro về tài chính do thương tật, các Công ty bảo

hiểm sẽ dàn trải chi phí do các thiệt hại sẽ xảy ra trong một tập hợp những

người được bảo hiểm. Sau đó Công ty bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ trước

những tổn thất về kinh tế bằng việc áp dụng một quy luật đơn giản.

Nếu tổn thất kinh tế xảy ra do một rủi ro nào đó, chẳng hạn bị thương

tật thì tổn thất đó có thể được chia sẻ bởi số đông những người cùng có khả

năng chịu tổn thất đó nhưng xác suất xảy ra tổn thất của mỗi người là khá

thấp nên chi phí cho mỗi người sẽ tương đối nhỏ.

Những đặc điểm của rủi ro có thể được bảo hiểm:

Các sản phẩm bảo hiểm được thiết kế dựa theo một số nguyên tắc cơ

bản trong việc xác định những rủi ro có thể được bảo hiểm. Để một rủi ro tổn thất tiềm năng - được bảo hiểm, rủi ro đó phải có một vài đặc điểm:

1. Tổn thất phải xảy ra một cách ngẫu nhiên.

2. Tổn thất phải xác định được.

3. Tổn thất phải đáng kể.

4. Xác suất tổn thất phải dự tính được.

5. Tổn thất không phải là tính chất thảm họa đối với công ty bảo hiểm.

20



Năm đặc điểm cơ bản trên xác định các rủi ro có thể được bảo hiểm và

hình thành nền móng cho công tác kinh doanh bảo hiểm. Những tổn thất tiềm

năng không có những đặc điểm trên nói chung không được coi là rủi ro có thể

được bảo hiểm.

a. Tổn thất xảy ra phải ngẫu nhiên

Để một tổn thất tiềm năng có thể được bảo hiểm phải có sự xuất hiện

của yếu tố ngẫu nhiên. Rủi ro phải được gây ra hoặc bởi yếu tố bất ngờ hoặc

phải bởi một sự kiện không phải do hành động chủ ý của người được bảo

hiểm. Chẳng hạn, con người không thể kiểm soát việc mình có thể bị ốm nặng

hay không, cho nên các nhà bảo hiểm cung cấp các đơn bảo hiểm sức khỏe để

cung cấp sự bảo vệ về kinh tế trước những thiệt hại về tài chính trong trường

hợp người được bảo hiểm bị bệnh và phải chịu những chi phí về y tế.

Nếu nguyên tắc này được áp dụng một cách chặt chẽ thì sự kiện chết là

điều chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nhiên, thời điểm chết thường nằm ngoài sự

kiểm soát của con người. Vì vậy, mặc dù sự kiện chết - được bảo hiểm - là

một sự kiện chắc chắn xảy ra, nhưng thời điểm của sự kiện đó thường xảy ra

một cách ngẫu nhiên.

b. Tổn thất phải được xác định

Với hầu hết các loại bảo hiểm, một sự kiện bảo hiểm phải được xác

định về thời gian và số tiền. Nói cách khác, nhà bảo hiểm phải xác định được

khi nào phải trả số tiền bảo hiểm và họ sẽ phải trả bao nhiêu. Chết, bệnh tật,

thương tật và tuổi già nói chung là những điều kiện có thể nhận biết được.

Tuy nhiên, số tiền thiệt hại về kinh tế do những rủi ro này có thể khác nhau.

Một điều khoản quan trọng trong hợp đồng giữa Công ty bảo hiểm và chủ hợp

đồng bảo hiểm là số tiền bảo hiểm được thanh toán nếu sự kiện bảo hiểm xảy

ra khi hợp đồng đang có hiệu lực. Tùy thuộc vào cách mà hợp đồng quy định

về số tiền chi trả, mọi hợp đồng bảo hiểm được phân loại thành: Hợp đồng

21



bồi thường và hợp đồng khoán. Hợp đồng bồi thường là hợp đồng bảo hiểm

mà theo đó số tiền chi trả được thanh toán căn cứ vào số tiền tổn thất thực tế

phát sinh. Hợp đồng quy định rằng số tiền thanh toán bằng với số tiền bị thiệt

hại hoặc số tiền tối đa quy định trong hợp đồng - tuỳ theo số tiền nào nhỏ hơn.

Khi chủ hợp đồng đó khiếu nại giải quyết bồi thường - đơn yêu cầu thanh

toán theo điều khoản của hợp đồng - số tiền mà công ty bảo hiểm chi trả sẽ

không lớn hơn số tiền thực tế chịu thiệt hại. Rất nhiều hợp đồng bảo hiểm sức

khỏe trả quyền lợi dựa trên chi phí y tế thực tế nên thuộc loại hợp đồng bồi

thường. Các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm và tài sản cũng là những hợp

đồng bồi thường.

Hợp đồng bảo hiểm khoán quy định số tiền thanh toán sẽ phải chi trả

khi tổn thất được bảo hiểm xảy ra mà không dựa trên cơ sở số tiền tổn thất

thực tế phát sinh. Phần lớn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ quy định số tiền được

chi trả nếu một người chết khi hợp đồng đang có hiệu lực.

c. Tổn thất phải đáng kể

Như chúng ta đã nói ở phần trước, những thiệt hại không đáng kể, như

việc mất một chiếc áo mưa thông thường không được bảo hiểm. Chi phí quản

lý việc chi trả tiền bảo hiểm khi có một tổn thất rất nhỏ xảy ra sẽ kéo chi phí

dự phòng bồi thường lên rất cao so với số tiền tổn thất dự tính nên việc kinh

doanh bảo hiểm những tổn thất như vậy không khả thi.

Mặt khác, một số tổn thất sẽ gây ra những khó khăn thực sự về tài

chính cho hầu hết mọi cá nhân và sẽ có thể được bảo hiểm. Ví dụ, một người

bị thương trong một tai nạn có thể bị mất đáng kể thu nhập nếu anh ta không

thể làm việc. Những tổn thất như vậy sẽ được bảo hiểm.

d. Xác suất tổn thất phải dự tính được

Để cung cấp một loại hình bảo hiểm, nhà bảo hiểm phải tính được tỷ lệ

tổn thất dự tính của nhóm người được bảo hiểm theo loại hình đó. Để dự tính

22



được tỷ lệ tổn thất trong một nhóm người được bảo hiểm, nhà bảo hiểm phải

dự tính được số lượng và thời điểm của những tổn thất được bảo hiểm sẽ xảy

ra trong nhóm người được bảo hiểm đó. Nhà bảo hiểm dự tính tỷ lệ tổn thất

trong nhóm người đó để có thể xác định được số phí bảo hiểm phù hợp.

Không ai có thể dự tính được tổn thất mà một người cụ thể nào đó có

thể gặp phải. Chúng ta không thể biết được khi nào một người sẽ chết, bị

thương tật hoặc nhập viện. Tuy nhiên, các nhà bảo hiểm có thể dự tính được

với độ chính xác khá cao số người trong một nhóm sẽ chết, bị thương tật hoặc

nhập viện trong một khoảng thời gian nhất định.

Những dự tính về những thiệt hại tương lai được dựa vào khái niệm:

Mặc dù các sự kiện riêng lẻ, chẳng hạn như việc một người nào đó chết, xảy

ra là ngẫu nhiên, nhưng chúng ta có thể sử dụng những quan sát về các sự

kiện trong quá khứ để dự tính khả năng - hay xác suất - mà một sự kiện nào

đó sẽ xảy ra trong tương lai. Một khái niệm quan trọng giúp đảm bảo sự chính

xác cho dự đoán của chúng ta về các sự kiện sẽ xảy ra là quy luật số lớn.

Theo quy luật số lớn, thông thường, khi chúng ta quan sát một sự kiện

xảy ra càng nhiều thì những kết quả quan sát của chúng ta sẽ càng gần đúng

với xác suất thực tế xảy ra sự kiện đó.

Chẳng hạn khi bạn tung một đồng xu bình thường thì khả năng nó rơi

xuống đất với mặt ngửa là 50/50. Nếu bạn tung đồng xu 4 hoặc thậm chí 12

lần thì kết quả có thể không như vậy. Nhưng nếu bạn tung đồng xu tới 1000

lần bạn có thể có kết quả gần như tương đương nhau: 50% là mặt sấp và 50%

mặt ngửa.

Các nhà bảo hiểm dựa vào quy luật số lớn khi dự đoán về những tổn

thất được bảo hiểm mà một nhóm người được bảo hiểm có thể gặp phải trong

thời gian tham gia bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thu thập những thông tin

điển hình từ một số lượng lớn để xác định loại tổn thất mà những người đó đã

23



gặp phải. Ví dụ, trong nhiều năm, các nhà bảo hiểm đã theo dõi một số lượng

lớn những người chết theo độ tuổi. Các Công ty bảo hiểm sau đó so sánh

những thông tin này với những kết quả thống kê dân số chung về số người

chết ở mỗi độ tuổi. Sử dụng những kết quả thống kê này, các Công ty bảo

hiểm có thể xây dựng được những bảng biểu gọi là bảng tỷ lệ tử vong, bảng

này chỉ ra tương đối chính xác về số lượng người trong một nhóm người

(khoảng 100.000 người hoặc nhiều hơn) có thể chết tại mỗi tuổi. Bảng tỷ lệ tử

vong cho biết tỷ lệ chết hay sự kiện chết theo tuổi trong một nhóm người nhất

định. Các Công ty bảo hiểm cũng xây dựng bảng tỷ lệ thương tật: Cho biết tỷ

lệ thương tật, ốm đau hoặc tai nạn theo tuổi trong một nhóm người nhất định.

Bằng cách sử dụng bảng tử vong và bảng thương tật, các nhà bảo hiểm nhân

thọ hoặc bảo hiểm sức khỏe có thể dự tính được tỷ lệ tổn thất tiềm năng trong

một nhóm người, các nhà bảo hiểm sử dụng những tỷ lệ được dự đoán này để

xây dựng tỷ lệ phí hợp lý đảm bảo khả năng chi trả quyền lợi bảo hiểm.

e.Tổn thất không phải là thảm họa đối với công ty bảo hiểm

Một tổn thất tiềm năng sẽ không được bảo hiểm nếu sự cố đó có thể

gây ra thiệt hại tài chính có tính thảm hoạ đối với nhà bảo hiểm. Tổn thất đó

không được bảo hiểm bởi vì nhà bảo hiểm không thể thực hiện các cam kết

trả tiền bảo hiểm cho rủi ro đó. Để ngăn ngừa khả năng xảy ra thiệt hại mang

tính thảm họa và đảm bảo những thiệt hại đó xảy ra một cách độc lập với

nhau, các nhà bảo hiểm đã dàn trải những rủi ro được bảo hiểm. Ví dụ, nhà

bảo hiểm tài sản sẽ không sẵn sàng cấp đơn bảo hiểm cho tất cả những nhà

nằm trong vòng bán kính 50 dặm của vùng núi lửa đang hoạt động bởi vì một

sự phun trào của núi lửa có thể gây ra nhiều vụ bồi thường cùng một lúc vượt

quá khả năng chi trả của nhà bảo hiểm. Thay vì vậy, nhà bảo hiểm sẽ cấp đơn

bảo hiểm cho những ngôi nhà không nằm trong vùng bị đe dọa bởi núi lửa.

Bằng một cách khác, nhà bảo hiểm có thể giảm khả năng chịu những

tổn thất lớn bằng cách chuyển giao rủi ro cho một nhà bảo hiểm khác. Một

24



nhà bảo hiểm chuyển giao rủi ro cho nhà bảo hiểm khác bằng phương pháp tái

bảo hiểm những rủi ro đó. Tái bảo hiểm là phương pháp bảo hiểm mà một

công ty bảo hiểm được gọi là Công ty nhượng (hay còn gọi là công ty bảo

hiểm gốc) mua bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm khác - gọi là nhà tái bảo

hiểm để chuyển giao rủi ro trong các đơn bảo hiểm mà công ty nhượng đã

phát hành các đơn đó.

Nhượng bảo hiểm là việc có các hợp đồng tái bảo hiểm bằng cách

chuyển giao toàn bộ hoặc một phần rủi ro cho nhà tái bảo hiểm. Một Công ty

bảo hiểm thông thường đặt ra số tiền bảo hiểm tối đa - gọi là giới hạn giữ lại mà nhà bảo hiểm sẵn sàng tự gánh chịu mà không phải chuyển giao một phần

rủi ro nào cho nhà tái bảo hiểm.

Bằng tái bảo hiểm, rủi ro được phân chia lại giữa các nhà bảo hiểm.

Một vài Công ty bảo hiểm chỉ hoạt động nhờ nhà tái bảo hiểm. Những Công

ty bảo hiểm khác vừa cấp các đơn bảo hiểm cho các cá nhân và các doanh

nghiệp lại vừa hoạt động như nhà tái bảo hiểm. Một nhà tái bảo hiểm cũng

đôi khi chuyển lại các rủi ro cho nhà tái bảo hiểm khác bằng cách nhượng tái

bảo hiểm. Công ty tái bảo hiểm nhận bảo hiểm các rủi ro được nhượng lại bởi

các Công ty tái bảo hiểm khác, gọi là công ty nhận nhượng tái bảo hiểm.

Bằng cách thiết lập giới hạn giữ lại và tham gia các hợp đồng tái bảo

hiểm, một nhà bảo hiểm có thể cấp đơn bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn.

Các chủ hợp đồng được tái bảo hiểm, nhìn chung không biết được hợp đồng

tái bảo hiểm giữa Công ty bảo hiểm và Công ty tái. Công ty cấp đơn bảo hiểm

thu phí bảo hiểm và chi trả quyền lợi bảo hiểm cho người thừa kế hợp pháp

khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra

1.2.3.1 Đánh giá mức độ rủi ro

Khi một Công ty bảo hiểm nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm, Công ty

phải đánh giá mức độ rủi ro mà nếu công ty chấp nhận phát hành hợp đồng

25



bảo hiểm. Công ty bảo hiểm không thể cho rằng rủi ro của mỗi khách hàng đề

nghị được bảo hiểm đều có khả năng xảy ra ở mức trung bình. Không phải

khả năng xảy ra tổn thất đối với tất cả mọi người cùng giới tính, độ tuổi đều

như nhau. Ngoài ra, những cá nhân tin tưởng rằng mình có mức độ tổn thất

trên trung bình có xu hướng mong muốn tham gia bảo hiểm hơn những người

mà khả năng xảy ra tổn thất dưới trung bình. Xu hướng này - gọi là sự lựa

chọn bất lợi cho công ty bảo hiểm hay sự lựa chọn đối nghịch - là lý do chủ

yếu buộc Công ty bảo hiểm phải kiểm tra kỹ từng giấy yêu cầu bảo hiểm để

đánh giá đầy đủ về mức độ rủi ro mà Công ty sẽ phải chịu nếu đồng ý chấp

nhận bảo hiểm. Nếu Công ty bảo hiểm luôn đánh giá thấp mức độ rủi ro được

nhận bảo hiểm thì tỷ lệ phí bảo hiểm có thể không đủ để chi trả quyền lợi bảo

hiểm đã cam kết.

Quá trình nhận biết và phân loại mức độ rủi ro của người yêu cầu được

bảo hiểm được gọi là công tác đánh giá rủi ro hay lựa chọn rủi ro và những

nhân viên của Công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm đánh giá các rủi ro được

yêu cầu bảo hiểm gọi là chuyên viên đánh giá rủi ro. Đánh giá rủi ro bao gồm

2 giai đoạn chủ yếu: (1) Xác định những rủi ro của người đề nghị được bảo

hiểm và (2) Phân loại mức độ rủi ro của người đề nghị được bảo hiểm.

a. Xác định rủi ro

Như chúng ta đã đề cập ở phần trước, các nhà bảo hiểm không thể dự

đoán được khi nào một người sẽ chết hoặc sẽ bị bệnh tật. Tuy nhiên, các nhà

bảo hiểm có thể nhận biết được những yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm khả

năng mà một người sẽ bị tổn thất. Trong các yếu tố đó, những yếu tố quan

trọng nhất là nguy cơ vật chất và nguy cơ đạo đức. Nguy cơ vật chất là một

đặc điểm vật chất làm tăng khả năng thiệt hại. Ví dụ, một người với tiền sử bị

đau tim có nguy cơ vật chất làm tăng khả năng người đó bị chết sớm hơn là

người cùng tuổi, cùng giới tính mà không có tiền sử bệnh tật như vậy. Các



26



chuyên viên đánh giá rủi ro phải đánh giá cẩn thận người đề nghị được bảo

hiểm để phát hiện các nguy cơ vật chất này.

Các chuyên viên đánh giá rủi ro cũng cần phải xem xét sự ảnh hưởng

của nguy cơ đạo đức đến mức độ rủi ro của người đề nghị được bảo hiểm.

Nguy cơ đạo đức là khả năng mà một người có thể hành động một cách không

trung thực trong việc giao kết bảo hiểm. Ví dụ: Một người có một tiền sử về

hành vi trái pháp luật có thể lừa dối nhà bảo hiểm hơn là một người bình

thường và nhà bảo hiểm phải xem xét một cách cẩn thận sự việc đó khi đánh

giá giấy yêu cầu bảo hiểm của những người như vậy. Người ta có thể mua bảo

hiểm với lý do không trung thực. Các chuyên viên đánh giá rủi ro cũng đánh

giá rủi ro đạo đức của những cá nhân mua bảo hiểm thông qua những thông

tin sai mà họ cung cấp trong Giấy yêu cầu bảo hiểm. Trong những trường hợp

này, người mua bảo hiểm có thể cố gắng có được một hợp đồng bảo hiểm mà

nhẽ ra có thể không có được. Khi đánh giá các giấy yêu cầu bảo hiểm như

vậy, các chuyên viên đánh giá rủi ro có thể phải thực hiện nhiều bước để xác

định người yêu cầu được bảo hiểm có những nguy cơ đạo đức này.

b. Phân loại rủi ro

Sau khi nhận biết rủi ro của người đề nghị được bảo hiểm, chuyên viên đánh

giá rủi ro có thể phân chia Người được bảo hiểm theo các loại rủi ro tương

ứng. Mục đích của việc phân loại rủi ro là để nhà bảo hiểm có thể xác định

được tỷ lệ phí thích hợp đối với phạm vi bảo hiểm được yêu cầu.

Những người được phân loại ở những rủi ro khác nhau thì phải trả

những khoản phí bảo hiểm khác nhau. Nếu không có sự phân loại các mức

phí khác nhau, một số chủ hợp đồng bảo hiểm có thể phải nộp phí quá nhiều

so với phạm vi bảo hiểm của mình, trong khi những người khác có thể phải

trả ít hơn chi phí thực tế của đơn bảo hiểm đó.



27



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

×