1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƯ NHÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 136 trang )


dƣới 300 ngƣời. Gần 20% doanh nghiệp có số lao động trên 300 ngƣời và dƣới

1000 ngƣời, số doanh nghiệp từ 1000 ngƣời trở lên chỉ có 6%.

Hiện nay sản phẩm may xuất khẩu của Việt nam có đến gần 70% đƣợc sản

xuất theo hình thức gia công, 30% theo hình thức bán gia công. Bởi vậy giá trị gia

tăng của ngành dệt may còn thấp. Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật kém, năng

suất thấp, mặt hàng còn phổ thông chƣa đa dạng chủng loại. Năng lực tiếp thị còn

hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp dệt may còn chƣa xây dựng đƣợc thƣơng hiệu

của mình, chƣa xây dựng đƣợc chiến lƣợc dài hạn cho doanh nghiệp. Công nghiệp

phụ trợ còn yếu, nguyên vật liệu đa phần phải nhập khẩu. Những điều này làm cho

thu nhập của ngành dệt may khá thấp so với những ngành khác. Đây là nguyên nhân

làm cho tính ổn định của nguồn lao động trong ngành không cao. Ngƣời lao động

không mấy mặn mà với ngành may, họ sẵn sàng chuyển đổi sang ngành khác có thu

nhập cao hơn. Mặc dù gần đây nhiều doanh nghiệp đã có những thay đổi trong

chính sách lƣơng thƣởng cho ngƣời lao động nhƣng số lao động thôi việc vẫn không

ngừng tăng lên so với số lao động tuyển mới. Phần lớn các doanh nghiệp dệt may

đều thực hiện thời gian làm việc theo ca kíp, thời gian làm việc thƣờng kéo dài quá

8 giờ/1 ngày nhƣng thu nhập trung bình mỗi tháng chỉ từ 1,2 đến 1,5 triệu đồng.

Điều này đã ảnh hƣởng lớn đến lợi ích của ngƣời lao động. Ngoài ra việc thực hiện

chế độ BHXH đặc biệt là trong các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ chƣa đƣợc

đảm bảo.

Dệt may là ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động phổ thông, trong đó lao

động nữ (tuổi từ 18 đến 30) chiếm khoảng 80%. Trƣớc tình hình phát triển mới (có

thêm doanh nghiệp (DN) vào đầu tƣ và nhiều DN đang mở rộng quy mô), toàn

ngành đang có nhu cầu lớn bổ sung lao động. Tỷ lệ nữ trong các doanh nghiệp dệt

may lớn nên nảy sinh nhiều vấn đề về chế độ thai sản, vấn đề vệ sinh, vấn đề nhà ở,

nhà trẻ...

Tất cả những vấn đề này nếu không đƣợc chủ sử dụng lao động quan tâm

đúng mức thì sẽ ảnh hƣởng không tốt đến lợi ích kinh tế của ngƣời lao động, từ đó

ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp.



52



2.2 KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP DỆT MAY Ở TỈNH THÁI BÌNH

2.2.1 Khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái

Bình

Ngành dệt may là một trong những ngành mũi nhọn định hƣớng xuất khẩu

của tỉnh, đây là ngành có tỷ trọng giá trị xuất khẩu lớn nhất của tỉnh (chiếm 86,6%).

Sự phát triển của ngành dệt may đã góp phần giải quyết nhiều việc làm cho ngƣời

lao động, đƣa ngành dệt may thành ngành thu hút nhiều lao động nhất trong các

ngành công nghiệp của tỉnh.

Theo báo cáo tình hình hoạt động doanh nghiệp dệt may năm 2010 và một số

giải pháp phát triển năm 2011 của Sở Công thƣơng Thái Bình tại hội nghị gặp mặt

doanh nghiệp dệt may thì hiện nay toàn tỉnh có 146 doanh nghiệp tham gia sản xuất

hàng dệt may gồm: may mặc có 51 doanh nghiệp, dệt, kéo sợi có 70 doanh nghiệp,

thêu có 22 doanh nghiệp, da giày có 3 doanh nghiệp [24]. Trong tổng số 146 doanh

nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh thì có 5 doanh nghiệp dệt may nhà nƣớc, 8 doanh

nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, còn lại là các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân.

Nhìn chung các doanh nghiệp dệt may của tỉnh có thị trƣờng ổn định. Nhiều

doanh nghiệp đƣợc các nhà cung cấp nƣớc ngoài đánh giá là chất lƣợng tốt, giá cả

cạnh tranh, quan hệ lao động giữa ngƣời lao động và chủ doanh nghiệp tƣơng đối

hài hoà, các sản phẩm thân thiện với môi trƣờng.

Một số doanh nghiệp thuộc nhóm hàng kéo sợi, may công nghiệp đã đầu tƣ

đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao chất

lƣợng sản phẩm nên đã phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của thị trƣờng.

Trong tổng số 146 doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình có 26 công ty trách

nhiệm hữu hạn 1 thành viên (TNHH-1TV), 34 doanh nghiệp tƣ nhân (DNTN), 29

công ty cổ phần và 57 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) [27].



53



23%

18%



Công ty TNHH-1

TV

Công ty TNHH

Công ty cổ phần

DNTN



20%

39%



Biểu 2.1: Cơ cấu các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình

phân theo loại hình doanh nghiệp

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Số liệu điều tra các

doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở Thái Bình

Hầu hết các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình là các doanh nghiệp có quy

mô vừa và nhỏ (vốn đăng ký dƣới 10 tỷ đồng), chiếm 82,2% tổng số doanh nghiệp

dệt may, chỉ có 26 doanh nghiệp có quy mô lớn nhƣ: xí nghiệp dệt Hồng Quân (vốn

đăng ký là 108 tỷ đồng), công ty cổ phần tập đoàn Đại Cƣờng (vốn đăng ký là 500

tỷ đồng), công ty TNHH sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (vốn đăng

ký là 711 tỷ 732 triệu đồng) [27]…

Năm 2010 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, dịch bệnh xảy

ra liên tiếp, giá cả nguyên liệu tăng khá cao, thiếu nhiều lao động, nguồn năng

lƣợng phục vụ sản xuất thiếu chƣa đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất đã ảnh hƣởng

trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Song với sự nỗ

lực cố gắng của các doanh nghiệp, sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ cùng với sự

quan tâm của các cấp, các ngành trong tỉnh, các doanh nghiệp dệt may của Thái

Bình năm 2010 đã đạt đƣợc một số kết quả nhất định.

Giá trị sản xuất năm 2010 (giá cố định năm 1994) của ngành đạt 3.256 tỷ

đồng, chiếm 31,9% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh, tăng 27,8% so với

năm 2009.



54



Tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành năm 2010 đạt 394,325 triệu USD, tăng

44,9% so với năm 2009, chiếm 86,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh [24].

Trong đó các doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn là:

Bảng 2.1: Giá trị xuất khẩu của một số doanh nghiệp dệt may

ở tỉnh Thái Bình năm 2010

Đơn vị: triệu USD

STT



Tên doanh nghiệp



Giá trị xuất khẩu



1



Công ty CP sản xuất hàng thể thao Maxport



61,7



2



Công ty TNHH Nienhsinh Việt Nam



46,6



3



Công ty TNHH Pooshin Vina



42,8



4



Công ty TNHH Minh Trí



14,4



5



Công ty TNHH Hợp Thành



14,5



6



Công ty TNHH SXKD XNK Nam Long…



12,5



Nguồn: Sở Công thương (2010), Báo cáo tình hình hoạt động doanh nghiệp

dệt may năm 2010 và một số giải pháp phát triển năm 2011

Những thành tựu trên đã tạo điều kiện để đảm bảo hơn nữa lợi ích kinh tế

của ngƣời lao động hoạt động trong các doanh nghiệp dệt may, góp phần đáng kể

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời lao động.

Tuy nhiên các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình vẫn còn tồn tại một số

hạn chế nhƣ:

Các doanh nghiệp dệt may chủ yếu làm hàng gia công cho các doanh nghiệp

nƣớc ngoài nên thị trƣờng bị lệ thuộc và chịu thiệt thòi hơn so với doanh nghiệp làm

hàng FOB (mua đứt, bán đoạn). Nhiều doanh nghiệp chƣa ký đƣợc hợp đồng xuất

khẩu trực tiếp, phải ký hợp đồng thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối.

Giá trị xuất khẩu hàng dệt may tuy chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất

công nghiệp toàn tỉnh nhƣng do chủ yếu là hàng gia công nên giá trị gia tăng thấp.

Chất lƣợng sản phẩm chƣa cao, chƣa đồng đều, chƣa chủ động đƣợc nguồn

nguyên liệu, năng suất lao động còn thấp.



55



Nguồn nhân lực của ngành dệt may vốn đƣợc coi là một lợi thế của tỉnh, thời

gian vừa qua cũng gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp thiếu lao động nhất là

các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, gần khu công nghiệp và thị trấn.

Tính cạnh tranh không lành mạnh ở một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã

xảy ra. Phần lớn các chủ doanh nghiệp chƣa đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn,

nghiệp vụ, còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh doanh.

Đặc biệt việc thực hiện Bộ luật Lao động chƣa nghiêm túc; thực hiện các chế

độ BHXH, BHYT, BHTN cho ngƣời lao động chƣa đầy đủ đã xảy ra ở không ít

doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh.

Những tồn tại trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến lợi ích kinh tế của ngƣời lao

động trong các doanh nghiệp dệt may đặc biệt là doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở

Thái Bình.

2.2.2 Đặc điểm lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt

may ở Thái Bình

2.2.2.1 Đặc điểm nguồn nhân lực của tỉnh Thái Bình

So với các địa phƣơng khác trong cả nƣớc, Thái Bình là một tỉnh có mật độ

dân số cao, đƣợc đánh giá là có lực lƣợng lao động dồi dào, ngƣời lao động cần cù,

chịu khó. Đến nay dân số Thái Bình ƣớc khoảng 2 triệu ngƣời. Trong đó dân số

nông thôn chiếm 90,2%, thành thị chiếm 9,8%; mật độ dân số 1.154 ngƣời/1km2.

Bình quân mỗi hộ gia đình có 3,4 ngƣời. Số ngƣời trong độ tuổi lao động là

1.320.000 ngƣời [5, tr15].

Trong những năm qua, chính sách giải quyết việc làm cho ngƣời lao động của

tỉnh không ngừng đƣợc quan tâm và đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Năm

2004, số lao động đƣợc giải quyết việc làm mới là 17 nghìn ngƣời. Năm 2009, số

liệu tƣơng ứng là 30 nghìn ngƣời. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hƣớng tích

cực. Tính đến năm 2009, cơ cấu lao động của tỉnh là: lao động trong lĩnh vực nông lâm - thủy sản chiếm 62.9%; lao động khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm

21.5%; lao động khu vực dịch vụ chiếm 15,6% [26].



56



Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm khoảng 42% tổng lực lƣợng lao động toàn

tỉnh. Trong đó đào tạo nghề chiếm khoảng 29%. Mỗi năm Thái Bình có khoảng

20.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông [26]. Đây là lực lƣợng lao động trẻ,

có trình độ văn hoá cơ bản, chƣa có điều kiện học lên bậc học cao hơn. Lực lƣợng

này có thể đƣợc đào tạo ở các trƣờng dạy nghề trong tỉnh hoặc đƣợc đào tạo tại chỗ

ở các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ là nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển

kinh tế - xã hội, trong đó có sự phát triển của các doanh nghiệp dệt may.

2.2.2.2 Đặc điểm lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt

may ở tỉnh Thái Bình

Khi nghiên cứu các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình có thể rút ra một

số nhận xét sau:

Một là, số lượng lao động hoạt động trong các doanh nghiệp dệt may trên

địa bàn toàn tỉnh chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động trong ngành công nghiệp

chế biến, chế tạo.

Dệt may là ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, lao động dệt may có xu

hƣớng ngày càng tăng cùng với sự phát triển ngành dệt may tỉnh Thái Bình.

Bảng 2.2: Lao động ngành dệt may ở tỉnh Thái Bình

Năm



Số lƣợng



Tỷ lệ % trên tổng số lao động trong



(nghìn lao động)



ngành công nghiệp chế biến, chế tạo



2005



30



18



2008



40



23



2009



55



32



2010



60



-



Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Sở Công thương và Niên Giám Thống kê Thái

Bình (2009).

Quan sát bảng 2.2, theo thống kê của Sở Công thƣơng tỉnh Thái Bình, năm

2005 lao động ngành dệt may có 30.000 lao động chiếm 18% tổng số lao động hoạt

động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến; chế tạo toàn tỉnh, thì đến năm 2010 đã là

trên 60.000 lao động. Số lƣợng lao động có xu hƣớng tăng khá trong khoảng 3 năm



57



gần đây, trƣớc đây từ năm 2005 đến 2008, mất 3 năm mới tăng đƣợc 10.000 lao

động thì giai đoạn 2008- 2009 chỉ mất một năm để tăng thêm 15.000 lao động, năm

2009 – 2010 tuy gặp phải khủng hoảng kinh tế nhƣng ngành dệt may vẫn tạo thêm

việc làm cho 5.000 lao động. Cơ cấu lao động trong tỉ trọng lao động chế biến; chế

tạo cũng liên tục tăng, điều này một lần nữa khẳng định vai trò của ngành dệt may

trong việc tạo thêm việc làm cho ngƣời lao động, giảm bớt sức ép việc làm cho

Tỉnh.

Hai là, các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh sử dụng lao động với

quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu .

Theo số liệu khảo sát của ngành Công thƣơng, tính đến 31/12/2010, trên địa

bàn tỉnh hiện có 146 doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng dệt may, sử dụng trên

60.000 lao động. Trong đó quy mô sử dụng lao động nhƣ bảng sau:

Bảng 2.3: Quy mô sử dụng lao động trong các doanh nghiệp

dệt may Thái Bình

STT



Quy mô



Số lƣợng



Tỷ lệ (%)



1



Dƣới 10 lao động



7



4,8



2



Từ 10 đến 49 lao động



23



15,8



3



Từ 50 đến 99 lao động



27



18,5



4



Từ 100 đến 199 lao động



30



20,5



5



Từ 200 đến 300 lao động



33



22,6



6



Từ 300 lao động trở lên



26



17,8



Tổng số



146



100



Nguồn: Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Bình(2010), Báo cáo kết quả điều tra

về tình hình lao động.

Nhƣ vậy, xét về quy mô doanh nghiệp theo tiêu chí sử dụng lao động thì các



58



doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Ba là, cơ cấu nhóm tuổi lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở Thái

Bình chủ yếu là từ 19 đến 29 tuổi; lao động nữ chiếm khoảng 80% lực lượng lao

động toàn ngành.

Trong số các doanh nghiệp dệt may năm 2010 qua Báo cáo Tổng hợp doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh của Sở Kế hoạch và đầu tƣ tỉnh [25] có thể thấy về nhóm

tuổi lao động (LĐ):

+ Dƣới 19 tuổi:



13%



+ Từ 19 tuổi đến 29 tuổi:



52%



+ Từ 30 tuổi đến 39 tuổi:



20%



+ Từ 40 tuổi đến 49 tuổi:



11%



+ Từ 50 tuổi trở lên:



4%



4%



13%



LĐ dưới 19 tuổi

LĐ từ 20 đến 29 tuổi

LĐ từ 30 đến 39 tuổi

52% LĐ từ 40 đến 49 tuổi

LĐ trên 50 tuổi



11%



20%



Biểu 2.2: Cơ cấu lao động trong ngành dệt may ở tỉnh Thái Bình

theo nhóm tuổi

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Báo cáo tổng hợp tình

hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Trong đó do đặc thù ngành nên tỉ lệ lao động nữ chiếm khoảng 80% tổng số

lao động toàn ngành.

Với đặc điểm lao động dệt may chủ yếu là nữ, đa phần lại là nữ trẻ, có thể thấy

sau khi xây dựng gia đình và luống tuổi thì năng suất, chất lƣợng giảm sút. Hơn nữa

lao động nữ lại có yếu tố sức khỏe và yếu tố tâm sinh lý không ổn định, có nhiều

điều kiện khác biệt nên có thể thấy: tình trạng lao động bỏ việc, tự do chuyển chỗ

làm khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp vừa tuyển đƣợc lớp công nhân mới, lại có



59



lớp cũ bỏ đi làm chỗ khác. Những doanh nghiệp có chính sách đãi ngộ tốt với công

nhân biến động lao động thấp hơn, nhƣng qua theo dõi tỷ lệ đó chỉ đạt 15-20%.

Bốn là, cơ cấu trình độ chuyên môn chủ yếu là lao động nghề sơ cấp, phổ

thông.

Cũng theo báo cáo này về trình độ ngƣời lao động trong ngành dệt may cũng

còn thấp, đa phần là lao động phổ thông, hoặc đào tạo nghề cơ bản.

+ Trình độ đại học (ĐH) và trên đại học:



4%



+ Trung cấp:



9%



+ Công nhân kỹ thuật:



14%



+ Lao động nghề sơ cấp, phổ thông:



73%



4%



9%

14%



Trình độ ĐH và trên

ĐH

Trình độ trung cấp

Công nhân kỹ thuật

Trình độ nghề sơ cấp và

phổ thông



73%



Biểu 2.3: Cơ cấu lao động trong các doanh nghiệp dệt may

ở tỉnh Thái Bình phân theo trình độ chuyên môn

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Báo cáo tổng hợp tình

hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Về cơ bản lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp dệt may có trình độ

thấp hơn so với mặt bằng trình độ lao động chung trong tỉnh. Có thể nói, trong thời

gian qua tỉnh Thái Bình đã quan tâm và chỉ đạo sát sao tới công tác đào tạo nghề

theo định hƣớng trong khu vực lợi thế, trong đó chú ý tới việc tăng nhanh số lƣợng

lao động tham gia các lớp dạy nghề dài hạn, nhờ đó mà ngƣời lao động dễ dàng tìm

đƣợc một công việc ổn định hơn. Vì thế mà ngƣời lao động, nhất là lao động ở khu

vực nông thôn đã từng bƣớc đƣợc nâng cao tay nghề, có trình độ chuyên môn ổn

định, có điều kiện tìm kiếm việc làm phù hợp hay tự tạo việc làm cho mình theo

những ngành nghề đã đƣợc đào tạo. Tuy nhiên, vẫn chƣa đáp ứng yêu cầu thực tế,



60



đặc biệt với ngành dệt may. Với đặc thù lao động phổ thông là chính, nhu cầu lao

động lớn đã dẫn đến tình trạng lao động chỉ đƣợc đào tạo qua học nghề cơ bản,

thiếu ý thức lao động công nghiệp. Do thiếu lao động, một số doanh nghiệp không

cần cả chứng chỉ đào tạo mà tuyển lao động tự do về tự đào tạo, kèm cặp.

Năm là, công tác quản trị nhân sự trong nhiều doanh nghiệp yếu kém, thiếu

quy chế lao động cụ thể.

Quy chế tiền lƣơng, tiền thƣởng không rõ ràng, minh bạch, khi có tranh chấp

lao động đổ lỗi trách nhiệm cho nhau. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may chƣa xây

dựng đƣợc chiến lƣợc nhân sự, lao động vẫn theo kiểu tức thời, quy mô các doanh

nghiệp còn nhỏ lẻ, nên trình độ ngƣời lao động chƣa cao là tất yếu.

Qua phân tích số liệu, chúng ta có thể rút ra những điểm cần lƣu ý về lao động

và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình nhƣ sau:

Thứ nhất, sử dụng và tuyển dụng nhiều lao động mà đa số là lực lƣợng lao

động trẻ và đa phần là nữ giới.

Thứ hai, tỷ lệ lao động chƣa qua đào tạo vẫn còn ở mức cao, đây là vấn đề

quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tiếp tục tăng cƣờng việc bồi dƣỡng,

đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho ngƣời lao động để sử dụng máy móc thiết bị,

công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển doanh nghiệp.

Thứ ba, lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp dệt may thƣờng xuyên

biến động, ngƣời lao động trong doanh nghiệp thƣờng không có mục tiêu dài hạn

trong công việc của mình khi làm tại một doanh nghiệp. Đây cũng là vấn đề hết sức

quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động cho phù hợp,

cũng nhƣ đặt ra cho chính quyền các cấp trong việc giải quyết các vấn đề xã hội lâu

dài.

Thứ tư, thiếu hụt lao động có trình độ cao, đặc biệt là đối với ngƣời lao động

kỹ thuật hoặc lao động có tay nghề ổn định...

Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn hiện nay và trong tƣơng lai, ngành dệt

may vẫn sẽ tiếp tục là ngành thu hút đƣợc nhiều lao động ở Tỉnh, tuy nhiên cần có

chính sách với ngƣời lao động nhằm đƣa ngành dệt may phát triển bền vững.



61



2.3 THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI

LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH

THÁI BÌNH

2.3.1 Thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong

khâu tuyển dụng, kí kết hợp đồng và mức độ ổn định của việc làm

Thời gian qua doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở Thái Bình đã đóng vai trò

tích cực và quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở địa phƣơng. Cùng với đà tăng nhanh về số lƣợng doanh nghiệp dệt may tƣ nhân, quy mô

lao động cũng tăng tƣơng ứng. Nhiều doanh nghiệp dệt may tƣ nhân đã giải quyết

việc làm cho một số lƣợng lao động tƣơng đối lớn nhƣ công ty cổ phần sản xuất

hàng thể thao Maxport (3.467 lao động), công ty TNHH may Hƣng Nhân (1.888 lao

động), xí nghiệp dệt may Hồng Quân (1300 lao động), công ty cổ phần BITEXCO

Nam Long (744 lao động)…[25]. Bên cạnh đó, chất lƣợng lao động cũng đƣợc cải

thiện đáng kể. Do doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến nên bƣớc

đầu đã có đƣợc đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đặc biệt là đội ngũ công nhân có tay

nghề cao và có tác phong công nghiệp.

2.3.1.1 Về tuyển dụng

Hiện nay việc tuyển dụng lao động và đào tạo nghề trong tỉnh vẫn còn nhiều

nhiêu khê, bất cập. Lao động phổ thông đƣợc các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân

thông báo tuyển mộ rầm rộ nhƣng cung vẫn không đủ cầu. Còn lao động kỹ thuật,

công nhân lành nghề tốt nghiệp từ những trƣờng đào tạo có chất lƣợng thật sự là

“hàng hiếm” đối với doanh nghiệp. Ngƣợc lại, các trung tâm dịch vụ việc làm,

trƣờng - trung tâm đào tạo nghề thì lại chƣa phát huy hết công suất, đào tạo chƣa sát

với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trƣờng dẫn đến tình trạng phải tái đào

tạo hoặc loại bỏ khi tuyển dụng.

Qua kết quả khảo sát tuyển dụng lao động năm 2010 cho thấy: Hình thức

tuyển dụng lao động trực tiếp của doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 73,8%, thông qua trung

tâm giới thiệu việc làm chiếm tỷ lệ thấp: 18,2%, hình thức tuyển dụng khác chiếm

8%; phần lớn kết quả tuyển dụng không đƣợc đăng kí qua sở Lao động – Thƣơng



62



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

×